Cập nhật nội dung chi tiết về Vẽ Thuyền Đánh Cá Đơn Giản mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Diposting pada
Mô hình tàu cá 0 9m cực chất duration. đơn giản nhất lược bỏ những phần không cần thiết.
Bằng Cach Vẽ Một Chiếc Thuyền Buồm Vẽ Bằng Tay Thuyền Vans Cach Vẽ
Cuối cùng là vẽ 1 con đò nhỏ cùng bác lái đò để hoàn thành bước vẽ tranh phong cảnh bằng bút chì.
5 bước vẽ tranh đề tài phong cảnh làng quê đơn giản. Vẽ và dán nhãn cho các nhánh ý tưởng đầu tiên. Thuyền đánh cá ở miền trung thường đánh bắt xa bờ và là vùng có kinh tế chủ yếu là ở ngoài khơi nên mắt thuyền luôn được vẽ rất dữ và họ có truyền thống lâu đời nên con mắt thuyền luôn luôn được sữa đổi và trau chuốt nên rất dữ và có hồn còn miền tây nam bộ tuy vẫn có thuyền những thuyền.
Hãy viết đầy đủ tên ví dụ. Bài thơ đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ hay của huy cận sáng tác sau năm 1945. Bài thơ đoàn thuyền đánh cá được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Làm thuyền động cơ điện đơn giản làm đồ chơi. Thêm 1 cây dừa cạnh bờ sông sau đó xác định đường chân trời và thêm chi tiết những vòm cây xanh ở xa. đài thơ thể hiện tình yêu quê hương niềm phấn khởi tin và tin yêu vào cuộc sống.
Bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh. đừng sử dụng chữ viết tắt. Kéo xuống dưới để xem nội dung bài soạn.
Cách làm thuyền đánh cá vn bằng giấy. Bài soạn theo tiêu chí. Tranh cá lia thia.
Soạn văn 9 bài đoàn thuyền đánh cá giản lược nhất. Nhà thơ huy cận đã từng gọi bài thơ đoàn thuyền đánh cá 1958 của mình là khúc tráng ca. Học sinh sẽ soạn bài nhanh nắm tốt ý chính.
Từ đó giúp em tư duy và đa dạng ngôn từ khi cần diễn giải. Tranh vẽ cô gái.
Decal Trang Tri Tường Tranh Vẽ Thuyền Lớn Va Nhỏ Ra Khơi Nau Nhạt Shopee Việt Nam
Be Họa Sĩ Thực Hanh Tập Vẽ 243 Vẽ Thuyền Buồm Youtube
Phan Tich Bai Thơ đoan Thuyền đanh Ca Của Huy Cận Bai Thơ đoan Thuyền đanh Ca Mieu Tả Lại Cảnh Lao động Của Những Người Ngư Dan Tren Biển đồng T
Bộ Sưu Tập 50 Mẫu Tranh To Mau Cac Phương Tiện Giao Thong Danh Cho Be Yeu đề An 2020 Tổng Hợp Chia Sẻ Hinh ảnh Tranh Vẽ Biểu Mẫu
Hội Nghề Ca Khanh Hoa
Https Xn V Nwm Vn Lam The Nao De Ve Mot Con Tau Huong Dan Ve Thuc Su De Dang
Hướng Dẫn 5 Bước Vẽ Tranh Phong Cảnh Biển đơn Giản Dễ Vẽ
Hướng Dẫn Be Vẽ Tau Thủy How To Draw And Coloring A Ship Youtube
Dạy Be Học Vẽ Thuyền Buồm How To Draw Sail Boat Vẽ Thuyền Buồm Youtube
Be Tập Vẽ Chiếc Thuyền Be Tập Vẽ Be Tập Vẽ Phương Tiện đi Lại Youtube
Vẽ Thuyền Buồm Vẽ Thuyền đơn Giản Vẽ Tranh đẹp Nhất 1 Trang Kiến Thức Học Tập Số 1 Hiện Nay
Hướng Dẫn Cach Vẽ Chiếc Thuyền đơn Giản Cho Be Cực Kỳ Dễ Dang Ma Lại đẹp Youtube
Cach Vẽ Chiếc Thuyền Buồm
Be Họa Sĩ Thực Hanh Tập Vẽ 244 Vẽ Tau Biển Youtube
Hinh Nền Bức Vẽ Thuyền Biển Sự Phản Chiếu Bầu Trời Mau Xanh Da Trời Tối Hải Cảng Dublin đanh Bắt Ca Lưới Thuyền Tau Thủy Bến Tau Colourartaward Photoart Nghệ
Cach Vẽ Thuyền Buồm How To Draw A Boat Step By Step Tutorial Youtube
Thuyền Buồm Việt Nam Viết Chi Gỗ
Sebarkan ini:
Twit
Soạn Bài: Đoàn Thuyền Đánh Cá
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Huy Cận trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian Huy Cận đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh vào năm 1958. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
* Thể thơ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được viết theo thể thơ 7 chữ.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Bố cục: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá có thể được chia làm 3 phần:
Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Phần 2: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
Phần 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh.
* Thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ: không gian rộng lớn, bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, gió. Còn thời gian ở đây là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
Câu 2:
* Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian rộng lớn của vũ trụ, giữa biển cả bao la, rộng lớn.
* Tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người lao động trước thiên nhiên vũ trụ bằng những biện pháp nghệ thuật là: cảm hứng lãng mạn, bay bổng; liệt kê, nhân hóa, so sánh thể hiện được sự phong phú của các loài cá, vẻ đẹp kì diệu và sự giàu có của biển khơi. Qua đó, hiện lên hình ảnh người lao động thật đẹp, thật hăng say, con người như hòa quyện vào với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Câu 3:
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp và tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ 1,3,4 và 7: Đó là hình ảnh cảnh biển về đêm rộng lớn, thật gần gũi với con người:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Tác giả so sánh mặt trời giống như hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Ở đây, trời và biển có sự giao hòa trọn vẹn, mặt biển mênh mông, rộng lớn sẽ làm cho “hòn lửa” mặt trời dịu êm hơn. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, còn màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Hay nói cách khác, vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian.
Câu 4:
Bài thơ có nhiều từ “hát”, cả bài thơ cũng như một khúc ca, đây là khúc ca ngợi ca lao động, tinh thần làm chủ và niềm vui phơi phới mà tác giả viết thay cho người dân lao động, cụ thể ở đây là những người lao động trên biển.
Âm hưởng và giọng điệu của bài thơ rất sôi nổi, khỏe khoắn, phơi phới và bay bổng. Có sự kết hợp của cả vần bằng và vần trắc, vần liền xen lẫn vần bằng. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh, còn vần bằng tạo nên sự vang xa, bay bổng.
Câu 5:
Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em thấy tác giả có một cái nhìn khá tươi mới, tràn đầy cảm xúc hào hứng. Mỗi hình ảnh thơ đều mang sức sống, mang niềm vui, cuốn theo tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la, hùng vĩ, giàu có vô tận của nhà thơ: cảnh cửa vũ trụ với hòn lửa mặt trời, cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim,…người lao động đang hăng say làm việc. Qua đó, cho chúng ta thấy tình yêu của tác giả đối với quê hương, đất nước, phải là một con người gắn bó với quê hương, gắn bó với người dân lao động làng chài thì mới có thể viết nên những vần thơ đẹp như thế.
Theo chúng tôi
Bài Thơ: Đoàn Thuyền Đánh Cá (Huy Cận
Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá mặt trời đội biển đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang màu mới cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
“Đoàn Thuyền Đánh Cá” Của Huy Cận
Đề bài: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận
Viết về đề tài lao động, bài thơ “Bài ca vỡ đất” của Hoàng Trung Thông và bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết “Đoàn thuyền đánh cá” vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên biển quê hương.
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn – đêm trăng – và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.
1. Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn, Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực “hòn lửa” từ từ lặn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la. như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mùng. Những con sóng, như những chiếc “then cài ” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hòa bình. Khúc hát lên đường vang động, Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió “căng” lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của nguời dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiểu may mắn:
“Hát rằng cá bạc, biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Chuyện làm ăn thường có nhiều may mắn. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lãng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng bồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngân dài và vang xa: “Cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển “, “luồng sáng”, “dệt lưới” là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tường thú vị về vè đẹp thơ ca viết về lao động.
Cảnh đánh cá trên biển được Huy Cận miêu tả với cảm hứng lãng mạn
2. Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời sông nước trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long một đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển. Đến ngư trường “dò bụng biển”, ngư dân khẩn trương lao vào công việc “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thù là một “chiến sĩ”. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con ngườt trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:
“Thuyên ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon nổi tiếng như tục ngữ đã nói: “Chim, thu, nhụ, đé”. Vận dụng sáng tạọ cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: “Cá thu biển đông như đoàn thoi”, ở đây lại miêu tả: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”. Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vây cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước lân tinh chan hòa ánh trăng “vàng chóe”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên vũ hội:
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.’
Nhìn bầy cá bơi iượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ huyền ảo lung linh: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”, như đưa người đọc đi vào cõi mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy.
Sung sướng nhìn đàn cá “dệt lưới”, những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyển đuổi cá hòa cùng sóng biển. Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng: tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền. “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”. Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản… Biển “như lòng mẹ” đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời này.
So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương, Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới “xoăn tay”. “Kéo xoăn tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe và đẹp. Cơ man nào là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. “Chùm cá nặng” là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”.
3. Khổ thơ cuổi nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát – tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt tròi được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tà nhịp sống khẩn trương:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới”.
Cảnh rạng đông với hình ảnh “mặt trời đội biển… ” nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa. một “màu mới ” bao trùm biển khơi. Đoàn thuyển phóng như bay vẻ bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời.
“Đoàn thuyền đánh cá ” là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “vạn cổ sầu” vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài “Đoàn thuyên đánh cá” mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ à hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió nưa nắng biến khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát… cho thấy một hồn thơ đẹp.
Từ khóa tìm kiếm
Bạn đang đọc nội dung bài viết Vẽ Thuyền Đánh Cá Đơn Giản trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!