Top 11 # Xem Nhiều Nhất Tự Học Vẽ Kỹ Thuật Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Techcombanktower.com

Kỹ Thuật Điều Khiển Tự Động

Ở trên chúng ta vừa đề cập đến khái niệm đặc tính động học của hệ thống tự động. Trong mục này, chúng ta sẽ xét đặc tính động học của một số khâu cơ bản như khâu tỉ lệ, vi phân, tích phân, quán tính bậc một, dao động bậc hai, … Trên cơ sở đặc tính động học của các khâu cơ bản, mục sẽ trình bày cách xây dựng đặc tính động học của hệ thống tự động.

Vậy tín hiệu ra của khâu tỉ lệ bằng tín hiệu vào khuếch đại lên K lần. Hình 3.2 mô tả hàm trọng lượng và hàm quá độ của khâu tỉ lệ.

a) Hàm trọng lượng; b) Hàm quá độ

Biểu đồ Bode; b) Biểu đồ Nyquist

Hàm quá độ:

Hàm trọng lượng:

Hàm quá độ của khâu vi phân lý tưởng hàm xung đơn vị ,hàm trọng lượng là đạo hàm của hàm quá độ, chỉ có thể mô tả bằng biểu thức toán học (hình 3.7), không biểu diễn bằng đồ thị được.

Đặc tính tần số của khâu vi phân lý tưởng a) Biểu đồ Bode; b) Biểu đồ Nyquist

Hàm trọng lượng của khâu quán tính bậc nhất là hàm mũ suy giảm về 0, hàm quá độ tăng theo qui luật hàm mũ đến giá trị xác lập bằng 1. Tốc độ biến thiên của hàm trọng lượng và hàm quá độ tỉ lệ với T nên T được gọi là thời hằng của khâu quán tính bậc nhất. T càng nhỏ thì đáp ứng càng nhanh, T càng lớn thì đáp ứng càng chậm. Hình 3.8 minh họa đặc tính thời gian của hai khâu quán tính bậc nhất có thời hằng tương ứng là T1 và T2, trong đó T1 < T2.

Thay t = T vào biểu thức 3.42 ta được h(T) = 0,63 , do đó thời hằng của khâu quán tính bậc nhất chính là thời gian cần thiết để hàm quá độ tăng lên bằng 63% giá trị xác lập (giá trị xác lập của h(t) = 1). Một cách khác để xác định thời hằng T là vẽ tiếp tuyến với hàm quá độ tại gốc tọa độ, khoảng cách từ giao điểm của tiếp tuyến này với đường nằm ngang có tung độ bằng 1 chính là T.

Đặc tính thời gian của khâu quán tính bậc nhất a) Hàm trọng lượng; b) Hàm quá độ

Biểu thức cho thấy biểu đồ Bode biên độ là một đường cong. Có thể vẽ gần đúng biểu đồ Bode biên độ bằng các đường tiệm cận như sau:

Như phân tích ở trên, ta thấy tại tần số 1/T độ dốc của các đường tiệm cận thay đổi, biểu đồ Bode là một đường gấp khúc nên tần số 1/T gọi là tần số gãy của khâu quán tính bậc nhất. Thay giá trị ω vào biểu thức ta vẽ được biểu đồ Bode về pha. Để ý một số điểm đặc biệt như sau:

Để vẽ biểu đồ Nyquist ta có nhận xét sau:

Hàm quá độ của khâu vi phân bậc nhất là tổ hợp tuyến tính của hàm xung đơn vị và hàm nấc đơn vị (hình 3.10). Ta thấy rằng khâu vi phân lý tưởng và vi phân bậc nhất có đặc điểm chung là giá trị hàm quá độ vô cùng lớn tại t = 0. Hàm trọng lượng là đạo hàm của hàm quá độ, chỉ có thể mô tả bằng biểu thức toán học ,không biểu diễn bằng đồ thị được.

So sánh biểu thức (3.53) và (3.54) với (3.45) và (3.46) ta rút ra được kết luận: biểu đồ Bode của khâu vi phân bậc nhất và khâu quán tính bậc nhất đối xứng nhau qua trục hoành (hình 3.11a).

Do G(jω) có phần thực P(ω) luôn luôn bằng 1, phần ảo Q(ω) có giá trị dương tăng dần từ 0 đến +8 khi thay đổi từ 0 đến +8 nên biểu đồ Nyquist của khâu vi phân bậc nhất là nửa đường thẳng qua điểm có hoành độ bằng 1 và song song với trục tung như hình 3.11b.

trong đó độ lệch pha ө xác định. Biểu thức cho thấy đặc tính thời gian của khâu dao động bậc hai có dạng dao động suy giảm, hàm trọng lượng là dao động suy giảm về 0, hàm quá độ là dao động suy giảm đến giá trị xác lập là 1 (hình 3.12).

– Nếu ξ=0:

, đáp ứng của hệ là dao động không suy giảm với tần số

, do đó

gọi là tần số dao động tự nhiên của khâu dao động bậc hai.

Biểu thức cho thấy biểu đồ Bode biên độ của khâu dao động bậc hai là một đường cong. Tương tự như đã làm đối với khâu quán tính bậc nhất, ta có thể vẽ gần đúng biểu đồ Bode biên độ bằng các đường tiệm cận như sau:

Ta thấy rằng tại tần số 1/T độ dốc của các đường tiệm cận thay đổi nên tần số 1/T gọi là tần số gãy của khâu dao động bậc hai.

Biểu đồ Bode về pha của khâu dao động bậc hai là một đường cong, để ý biểu thức (3.62) ta thấy biểu đồ Bode về pha có điểm đặc biệt sau đây:

Hình 3.13a minh họa biểu đồ Bode của khâu dao động bậc hai. Các đường cong ở biểu đồ Bode biên độ chính là đường L(ω) vẽ chính xác. Biểu đồ Bode biên độ chính xác có đỉnh cộng hưởng

tại tần

, do đó dễ thấy rằng nếu ξ càng nhỏ thì đỉnh cộng hưởng càng cao. Khi ξ=0 thì tần số cộng hưởng tiến đến tần số dao động tự nhiên

.

Biểu đồ Nyquist của khâu dao động bậc hai có dạng đường cong như minh họa ở hình 3.13b. Khi ω =0 thì G(jω) có biên độ bằng 1, pha bằng 0; khi

thì G(jω) có biên độ bằng 0, pha bằng -180 o. Giao điểm của đường cong Nyquist với trục tung có

, do đó tương ứng với tần số

, thay

vào biểu thức ta suy ra biên độ tại giao điểm với trục tung là

.

Đặc tính tần số của khâu dao động bậc hai a) Biểu đồ Bode; b) Biểu đồ Nyquist

Đặc điểm của khâu trễ là tín hiệu ra trễ hơn tín hiệu vào một khoảng thời gian là T.

Biểu đồ Bode biên độ của khâu trì hoãn là đường thẳng nằm ngang trùng với trục hoành do L(ω) = 0 với mọi ω. Để ý rằng biểu thức (3.68) là phương trình của một đường thẳng nếu trục hoành ω chia theo thang tuyến tính. Tuy nhiên do trục hoành của biểu đồ Bode lại chia theo thang logarith nên biểu đồ Bode về pha của khâu trì hoãn là đường cong dạng hàm mũ, xem hình 3.15a.

Bản Vẽ Lắp Trong Vẽ Kỹ Thuật

1/ Bản vẽ lắp là gì?

1.1/ Giới thiệu bản vẽ lắp

Bản vẽ chung được sử dụng để tiến hành lắp ráp các thiết bị, chi tiết, theo trình tự nhất định, dùng để kiểm tra đơn vị lắp hoặc được dùng để làm cơ sở để thiết kế các chi tiết, bộ phận ở giai đoạn thiết kế chế tạo.

Khi đọc bản vẽ chung người ta xác định được toàn bộ số chi tiết, khối lượng cũng như tên gọi, vật liệu và kích thước tổng thể cũng như quy ước các mối ghép ( lắp lỏng, trung gian, hay lắp chặt), cùng các thông số kỹ thuật chủ yếu của thiết bị.

1.2/ Nội dung bản vẽ lắp

Bản vẽ lắp là một tài liệu rất quan trọng, nội dung của nó bao gồm:

Hình biểu diễn cảu đơn vị lắp

Các kích thước, sai lệch giới hạn

Các chỉ dẫn về đặc điểm liên kết

Số thứ tự chỉ vị trí

Bảng liệt kê khối lượng, thứ tự, tên gọi, vật liệu, số lượng, ký hiệu và ghi chú.

Khung tên, khung bản vẽ ..

2/ Tạo bản vẽ lắp

2.1/ Hình biểu diễn các chi tiết trên bản vẽ lắp

Khi cần thiết trên bản vẽ lắp cho phép chỉ dẫn về nguyên lí làm việc của sản phẩm và tác dụng qua lại giữa các phần tử.

2.2/ Chọn hình biểu diễn

Hình biểu diễn chính là hình chiếu chính mà ở đó nó phải thể hiện được đặc trưng về hình dạng, kết cấu và phản ánh được vị trí làm việc của đơn vị lắp . Ngoài hình chiếu chính ra còn có một số hình biểu diễn khác được bổ xung làm sáng tỏ các chi tiết nhất. Các hình biểu diễn này được chọn dựa trên các yêu cầu thể hiện của bản vẽ lắp: vị trí, hình dạng …

Theo TCVN 3826-1993 quy định biểu diễn bản vẽ lắp như sau:

Cho phép không biểu diễn một số kết cấu của chi tiết như vát mép, góc lượn, rãnh thoát dao, khía nhám, khe hở của mối ghép..

Đối với một số chi tiết như nắp đậy, vỏ ngoài, tôn bưng .. nếu chúng che khuất các chi tiết khác trên một hình chiếu nào đó của bản vẽ lắp thì cho phép không biểu diễn chúng trên bản vẽ đó. Nhưng phải có ghi chú.

Nhưng ghi chú trên máy, thiết bị như: bảng hiệu, thông số kỹ thuật, nhãn mác. cho phép không biểu diễn nhưng phải vẽ đường bao của chi tiết đó.

Cho phép chỉ vẽ đường bao hoặc kí hiệu của các chi tiết phổ biến và có sẵn như: bu lông, vòng bi, các động cơ điện ..

Các chi tiết phía sau lò xo trên hình chiếu coi như bị lò xo che khuất.

Nếu có một số chi tiết giống nhau nhưng phân bố theo quy luật cho phép vẽ một chi tiết đại diện các chi tiết còn lại chỉ cần vẽ đường tâm.

Cho phép biểu diễn riêng một hay một cụm chi tiết của thiết bị, máy trên bản vẽ lắp nhưng phải có ghi chú về tên gọi và tỷ lệ.

Không cắt dọc các chi tiết như: trục, bu lông, đai ốc, vòng đệm, then, chốt …

Bề mặt tiếp xúc giữa hai chi tiết lắp ghép cùng kích thước danh nghĩa chỉ cần vẽ một nét.

Khi cần thể hiện khe hở cho phép vẽ tăng khe hở để thể hiện rõ.

3/ Ghi kích thước trên bản vẽ lắp

3.1/ Ghi kích thước và đánh số bản vẽ lắp

Kích thước trên bản vẽ lắp được ghi để thể hiện các tính năng, kiểm tra, lắp ráp, .. như: kích thước bao, kích thước lắp ghép giữa các chi tiết, ..

– Là kích thước thể hiện các tính năng của máy, các kích thước này thường được xác định từ trước, là kích thước cơ bản để xác định các thông số khác.

Ví dụ : kích thước bánh công tác trong máy bơm, kích thước đường kính ống của các van…

b/ Kích thước lắp ráp

Là kích thước thể hiện quan hệ lắp ghép giữa các chi tiết trong cùng một đơn vị lắp. Nó bao gồm kích thước và dung sai các bề mặt tiếp xúc, kích thước xác định vị trí giữa các chi tiết với một gốc chuẩn. Ví dụ kích thước của trục và ổ bi: ử40H7/k6

c/ Kích thước đặt máy

d/ Kích thước định khối

Kích thước định khối hay còn gọi là kích thước bao của vật thể cần biểu diễn nó chính là kích thước thể hiện độ lớn chung của vật thể, dùng làm cơ sở để xác định thể tích, đóng bao, vận chuyển và thiết kế không gian lắp đặt.

e/ Kích thước giới hạn

Kích thước giới hạn là kích thước thể hiện không gian hoạt động của thiết bị, kích thước này được dùng để làm cơ sở bố trí không gian làm việc cho thiết bị hoặc vận hành cho người lao động.

3.2/ Số chỉ vị trí

Số vị trí được ghi trên giá ngang của đường dẫn, và được ghi ở hình biểu diễn nào thể hiện rõ nhất chi tiết đó.

Số vị trí được ghi song song với khung tên cuả bản vẽ, ở phía ngoài hình biểu diễn và xếp thành hàng hay cột.

Mỗi số vị trí được ghi một lần trên bản vẽ và cho phép ghi cùng một chỉ số với các chi tiết giống nhau.

Khổ chữ số vị trí phải lớn hơn khổ chữ kích thước của bản vẽ.

Cho phép dùng đường dẫn chung trong trường hợp:

Các chi tiết kẹp chặt thuộc một vị trí lắp ghép.

Các chi tiết có liên hệ với nhau không kẻ được nhiều đường dẫn

3.1/ Yêu cầu kỹ thuật của bản vẽ lắp thể hiện

Các đặc yêu cầu làm việc của chi tiết như: áp lực làm việc, số vòng quay, khe hở làm việc, khe hở nhiệt ..

Thể hiện các yêu cầu riêng chưa thể hiện được trên bản vẽ như: về sai lệch hình dạng, chất lượng sản phẩm, độ cứng bề mặt .

Phương pháp nhiệt luyện, phương pháp gia công lần cuối..

Yêu cầu về vật liệu sơn phủ và một số yêu cầu riêng khác..

3.2/ Bảng kê

Bảng kê dùng để liệt kê các thành phần của các chi tiết thuộc vật thể, dùng làm tài liệu thiết kế và lập kế hoạch sản suất.

Bảng kê được quy định trong TCVN 3824-1983.

Bảng kê được đặt dưới hình biểu diễn và sát bên trên khung tên của bản vẽ lắp

Ví dụ: khung và bảng kê

Trong giai đoạn thiết kế chế tạo, người thiết kế cần dựa vào bản vẽ chung để vẽ các bản vẽ chế tạo chi tiết, gọi là vẽ tách chi tiết. Vậy việc đọc bản vẽ lắp và vẽ tách chi tiết là một việc rất quan trọng đối với người thiết kế chế tạo.

Khi đọc bản vẽ lắp yêu cầu phải biết và hiểu rõ về kết cấu của vật thể được biểu diễn. Phải hình dung được hình dạng của mỗi chi tiết trong tổ hợp lắp ghép, và quan hệ lắp ghép của chúng. Phải đọc được kích thước và sai lệch giới hạn của chúng, và phải biết kích thước nào là quan trọng, và có tham gia lắp ghép hay không.

Khi có đầy đủ các phần thuyết minh của bản vẽ lắp, người đọc cũng cần phải biết nguyên lý làm việc và công dụng của vật thể biểu diễn.

4.2/ Trình tự đọc bản vẽ lắp

Khi tiến hành đọc bản vẽ láp cần tiến hành theo trình tự sau:

a/ Tìm hiểu chung

Trước hết đọc nội dung khung tên, phần thuyết minh và các yêu cầu kỹ thuật để có khái niệm sơ bộ về đơn vị lắp, về nguyên lý làm việc và công dụng của đơn vị lắp.

b/ Phân tích hình biểu diễn

Để đi sâu vào nội dung bản vẽ, cần nghiên cứu các hình biểu diễn trên bản vẽ lắp , hiểu rõ tên các hình chiếu cơ bản, vị trí của các mặt cắt trên hình cắt và mặt cắt, phương chiếu của các hình chiếu phụ và hình chiếu riêng phần, sự liên hệ chiếu giữa các hình biểu diễn. trong giai đoạn này ta cần hiểu được tổng quan về hình dạng và kết cấu và đặc điểm của vật thể lắp.

c/ Phân tích các chi tiết

Lần lượt đi phân tích từng chi tiết một. Bắt đầu từ chi tiết chính sau mới đến các chi tiết ít quan trọng hơn. Từ chi tiết có kích thước lớn hơn sang chi tiết nhỏ hơn.

Ta cũng có thể đọc các chi tiết từ các hàng trong bảng kê rồi đọc trên các hình biểu diễn theo chỉ số vị trí của nó sau đó căn cứ theo phạm vi đường bao của chi tiết . Khi phân tích các chi tiết cần hiểu rõ kết cấu, công dụng và quan hệ lắp ghép của chúng.

d/ Tổng hợp

Khi đã phân tích xong các bước trên , cuối ta tổng hợp lại toàn bộ để hiểu rõ về toàn bộ vật thể.

Kỹ Thuật Vẽ Tranh Sơn Dầu

Kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu

 Kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu

Hội họa và âm nhạc là hai bộ môn nghệ thuật lâu đời nhất của loài người. Không biết âm nhạc có trước – mà còn tùy định nghĩa – hay hội họa có trước, nhưng ngay khi con người còn ăn lông ở lỗ đã vẽ những hình tượng trong hang động, dù là với mục đích gì.

Hội họa và âm nhạc là hai bộ môn nghệ thuật lâu đời nhất của loài người. Không biết âm nhạc có trước – mà còn tùy định nghĩa – hay hội họa có trước, nhưng ngay khi con người còn ăn lông ở lỗ đã vẽ những hình tượng trong hang động, dù là với mục đích gì. Ngày nay nhiều bộ môn khác ra đời đặc biệt các bộ môn hiển thị (Visual Arts) như nhiếp ảnh, điện ảnh cũng vẫn không làm cho hội họa mai một. Ngay về hội họa và chỉ trên góc cạnh kỹ thuật cũng chia ra nhiều ngành: Thủy mặc, Mầu nước, Sơn mài, Mộc bản, Sơn Nước (Acrylic), Sơn dầu (Oil colour), Phấn tiên (Pastel)…Trong bài này chúng ta chỉ chú ý đến những điểm căn bản của kỹ thuật sơn dầu. Dĩ nhiên muốn vẽ, chúng ta cần vật liệu và dụng cụ rồi sau đó là đến cách vẽ.

VẬT LIỆU VẼ TRANH

Mặt vẽ (Support): Sơn dầu có thể vẽ trên gần như bất cứ vật liệu nào như vải bố, gỗ, giấy, nhựa, miễn là vật liệu ấy không chứa độ dầu (fat) cao hơn là độ dầu chứa trong sơn dùng để vẽ. Tuy nhiên khi chọn support để vẽ, cần để ý support có thể biến dạng theo thời gian. Dù sơn dầu khá chắc và có độ co dãn nào đó sau khi khô, nhưng nếu mặt support bên dưới biến dạng nhiều sẽ làm hư lớp sơn vẽ nằm bên trên. Support càng ít biến dạng thì càng có giá trị bảo trì cao. Một họa phẩm đẹp mới vài chục năm đã bị mục, phai mầu, bong sơn, nứt nẻ, co dúm thì thật đáng buồn. Gỗ tốt, canvas dán trên bìa cứng, ván ép để vẽ là những support tốt. Tuy nhiên support thông dụng nhất vẫn là canvas căng trên khung vì: – thoáng khí để sơn dễ bay hơi, “dễ thở”, khô đi một cách tự nhiên.

– Tương đối chịu được thời tiết khắc nghiệt (ít bị vênh, cong, nứt nẻ..) chứ không như những support loại khác – nhẹ. Vấn đề tưởng như không quan trọng, nhưng nếu bức họa lớn khoảng vài mét vuông nếu vẽ trên ván ép nặng vài chục ký khi cần di chuyển và treo lên rất khó khăn. Mang khoảng 20 họa phẩm như thế đi triển lãm, khiêng …bở hơi tai. Diện tích càng lớn, tỷ lệ trọng lượng vàn ép, giấy ép, plastic càng cao so với canvas căng trên khung. Môt bức họa nhỏ cỡ mặt monitor, vẽ trên support nào cũng nặng gần như nhau. Nhưng một bức họa cỡ chiếc chiếu vẽ trên ván ép có thể nặng gấp mười lần so với bức cùng cỡ vẽ trên canvas văng trên khung gỗ. . Canvas từ thế kỷ 15 đã từ từ thay thế ván gỗ, và trở nên thông dụng trong kỹ thuật tranh sơn dầu, sơn nước (Acrylic) vì những ưu điểm trên.

Sơn chống dầu (Primer): Trước tiên xin đừng lộn sơn chống dầu với sơn lót (Under-painting). Chúng ta sẽ nói thêm về điểm này khi nói về cách vẽ. Tất cả những support làm bằng vật liệu thiên nhiên như gỗ, sợi organic …cần phải sơn chống dầu trước khi vẽ sơn dầu. Lớp sơn chống dầu tất nhiên là loại sơn nước có chất keo bao phủ lấy mặt vẽ. Loại sơn chống dầu thông dụng gọi là Gesso. Phải sơn ít nhất ba lớp mới an toàn. Sơn chống dầu có hai công dụng.: – Không để dầu thấm vào sợi bố, sợi organic, vì chẳng bao lâu, bố thấm dầu sẽ bị mục. – Trám những lỗ li ti của support và như thế dầu và những chất phụ pha sơn khác sẽ không bị hút quá nhiều làm mất bớt công dụng và đặc tính của sơn vẽ. Canvas đã căng trên khung và đã sơn chống dầu có bán sẵn tại các tiệm cung cấp vật liệu nghệ thuật cho họa sỹ. Canvas bầy bán đủ loại đủ cỡ.

Cọ và dao (bay) (Brush and palette knife): Cọ là dụng cụ chính để vẽ. Nói thế bởi vì người ta có thể vẽ sơn dầu với bất cứ phương tiện nào: như dùng bay, một miếng móp, một chiếc khăn lông, một cái muỗng, ngay cả vói ngón tay của mình. Tuy vậy cọ vẫn được coi là dụng cụ phổ thông nhất. Tùy độ cứng mềm của lông xử dụng mà những vết cọ để lại trên sơn khác nhau. Cọ có phẩm chất cao không bị rụng lông khi vẽ, không bị tòe đầu, biến hình dạng một sớm một chiều. Cọ tốt sau khi dùng trở lại hình thể nguyên thủy và nếu bảo trì kỹ lưỡng sẽ rất bền. Nên mua cọ tốt. Cọ rẻ tiền gây nhiều phiền toái khi cẽ và mau hư. Lúc đầu nên dùng loại cọ lông tương đối mềm, vì ta có khung hướng nhấn cọ hơi mạnh; nếu dùng loại lông cứng sẽ quẹt hết sơn đi. Có nhiều nhãn hiệu khác nhau, một trong những hiệu khá thông dụng và tốt, giá phải chăng là hiệu M. Grumbacher. Chỉ cần một bộ cọ vài cái đủ để vẽ bất cứ loại tranh nào. Một người mới bắt đầu làm quen với sơn dầu chỉ cần: – Một cọ tương đối dẹp, đầu bằng, rộng 2”, để sơn những mảng tương đối lớn, hay sơn lót và một cọ dẹp đầu bằng rộng khảng 3/4”. – Một cọ fibert hay Walnut-shaped (đầu dẹp hình bầu dục, có thể hơi nhọn) khoảng nửa inch và một cọ cùng loại nhỏ hơn khoảng ¼”. Loại này rất thông dụng vì đa dụng. – Một cọ tròn nhỏ nhọn đầu (round brush) (như bút viết chữ nho) để vẽ nét mảnh. Cũng có thể dùng cọ filbert 1/4” nói trên để vẽ những nét nhỏ như cành cây, cọng cỏ.

Cầm cọ như thế nào? Thật ra không có một cách cầm cọ nào nhất định cả. Tuy nhiên người ta thấy đa số họa sỹ khi cần quét những đường dài thì cầm cán cọ trong lòng bàn tay, làm thế nào để cánh tay và cườm tay di chuyển thoải mái. Còn khi vẽ những đường ngắn, thì cầm như cầm cây viết chì vây. Nếu cần vẽ những đường chính xác thì bàn tay cần một cây nhỏ như cây thước để bàn tay có thể tựa lên. Ngoài cọ ra, cũng cần một cái cái bay để trộn mầu, để cạo sơn trên khay pha mầu (palette). Bay còn là phương tiện để vẽ thông dụng thứ hai sau cọ, đặc biệt công hiệu khi vẽ trên lớp sơn còn ướt (alla prima). Người ta chỉ dùng bay từ đầu tới cuối mà vẽ được nguyên một bức tranh. Vẽ bằng bay tương đối khó nhưng không vì vậy mà không thử và luyện tập. Bay có ưu điểm là không để lại đường vết của những sợi lông như khi vẽ bằng cọ, chùi mau sạch, bền, không cần dùng hóa chất để rửa nên nơi làm việc bớt bị ô nhiễm. Vì lau sạch rất mau, nên chuyển đổi mầu rất nhanh, không bị đợi lâu mà cụt mất hứng.

Sơn dầu (Oil Colour): Chất (medium) dùng pha chế mầu (pigment) của sơn dầu tất nhiên là dầu. Sơn dầu bán ngoài thị trường mang nhiều nhãn hiệu. Sơn càng đậm đặc pigment bao nhiêu mầu càng rực rỡ bấy nhiêu, và thường đắt tiền hơn. Không nhất thiết phải vẽ sơn cùng một nhãn hiệu. Một công ty nào đó chế một vài mầu khá tốt, nhưng những mầu còn lại phải mua của những hiệu khác, vì độ pigment yếu quá, sơn lỏng quá khó dùng, nhất là khi vẽ impasto (vẽ những nét đường gồ ghề) trong lối vẽ alla prima (vẽ trên lớp sơn còn ướt). Do những chất pha chế sơn khác nhau, một số mầu lâu khô hơn một số mầu khác. Mầu trắng và màu vàng (white and pale yellow) lâu khô nhất; mầu nâu (burnt umber) mau khô nhất. Có ba mầu nguyên thủy (Primary colours) là những mầu người vẽ không tự pha trộn được từ những mầu khác. Theo nguyên tắc khi pha trộn với nhau theo những tỷ lệ khác nhau mầu nguyên thủy sẽ sinh ra vô số mầu phụ. Ba mầu nguyên thủy đó là: Vàng (Process yellow/Pale yellow), Thiên thanh (Cyan/Mầu xanh dương), Đỏ hạt lựu (Process red/Magenta). Ba mầu này rất tinh tuyền- mầu này không vương chút nào hai mầu kia cả. Tất cả những mầu khác đều có thể pha ra từ ba mầu này. Trong kỹ thuật ấn loát và phân mầu (trên computer chẳng hạn) người ta ghi tắt là: YMCK (Yellow – Magenta – Cyan và Black), thực tế trong ngành in người ta thường dùng thêm mầu đen, vì độ chính xác của máy in, nhiều khi trộn ba mầu nguyên thủy không đạt được mầu đen như ý. Xin nói chuyện ngoài đề: Những nhà nghiên cứu tâm lý thấy rằng trẻ em rất mê thích mầu nguyên thủy hay những mầu sát với mầu nguyên thủy. Mầu đã được pha chế bán ngoài thị trường có khi hơi lỏng,có khi hơi đặc cho một người. Có khi lại khô chậm quá, hay khô nhanh quá. Vì vậy ngoài mầu, cũng cần có một số chất khác để giúp người vẽ dễ xử dụng mầu. Coi như cần thiết:

– Dầu pha lỏng sơn: Dầu ở vào một trong hai nhóm: loại dễ bay hơi và loại không bay hơi mà khi khô thì cứng lại theo mầu. Nhóm thứ nhất để pha lỏng sơn, chùi sơn, lau cọ…biến chế từ những chất lấy từ thảo mộc hay động vật và có nhiều tên khác nhau thông như người ta gọi là Thinner hay Turpentine.. Loại không mùi, đắt tiền hơn nhưng không làm cho phòng vẽ bị ngộp. Loại đắt tiền dùng rửa cọ trong thời gian lâu không dùng sẽ giúp cọ ít bị đóng cứng. Nhóm thứ hai dùng để pha chút ít vào mầu giúp cọ đưa lướt nhẹ nhàng hơn. Nhóm này không bay hơi, từ từ khô đi và đóng cứng lại với mầu. Thông dụng nhất trong nhóm này là Linseed Oil. Trừ trường hợp cần thiết, ngoài ra không nên dùng quá nhiều chất pha sơn vì khi khô mầu bi xỉn, mất rực rỡ là một đặc tính của sơn dầu. – Có một số chất phụ khác tuy không dùng thường xuyên nhưng cũng nên biết như chất làm cho sơn mau khô, chất bảo vệ tranh khi đã hoàn tất và sơn đã thật sự khô (matte varnish/gloss varnish). Lạm dụng chất làm sơn mau khô khiến sơn sau khi khô dễ bị nứt nẻ. Chỉ dùng chất phun lên tranh để bảo vệ và tái lập cái đẹp của mầu sau khi sơn đã hoàn toàn khô, thông thường là sáu tháng đến một năm tùy lớp sơn vẽ dầy hay mỏng.

NHỮNG LỐI VẼ SƠN DẦU:

Nguyên tắc căn bản: Fat Over Lean. Cho dù các họa sỹ có cách vẽ riêng, nhưng có một nguyên tắc căn bản đã trở thành cố định “Sơn vẽ sau béo hơn sơn vẽ trước” (Fat over lean} hay vẽ trên nền sơn ít độ dầu. Đây là một nguyên tắc họa sỹ sơn dầu nào cũng phải tuân theo khi vẽ để tránh những sai lầm căn bản có thể làm hỏng bức tranh khi sơn khô. Fat over lean có nghĩa là mình đang vẽ sơn dầu trên một cái base ít dầu hơn. Tranh sơn dầu khô rất lâu. Có thể cần sáu tháng đến một năm mới hoàn toàn khô. Trong thời gian này, dầu tiếp xúc với không khí từ từ khô cứng lại vì ốc-xít hóa và hơi co lại một chút. Nếu ta vẽ “lean over fat”, hiểu là ta ta đang dùng turpentine pha loãng sơn ra và dùng nó vẽ trên lớp sơn dầu (chưa khô hẳn), như vậy lớp trên sẽ khô nhanh vì ít dầu hơn. Khi lớp dước khô sau sẽ khiến bức tranh bị bong ra hoặc nứt nẻ. Bởi vậy khi vẽ sơn dầu, ta luôn luôn nhớ nguyên tắc “Fat Over Lean”. Có nhiều cách vẽ fat over lean: – từ từ tăng độ dầu trong sơn, khi vẽ. – giảm bớt lượng dầu (pha loãng với turpentine) trong những lớp sơn đầu khi vẽ. – Dùng những mầu sơn khô mau để vẽ nền (xin coi lại đoạn nói về sơn dầu).

Vẽ trên sơn còn ướt (Alla prima): Sơn dầu lâu khô. Người vẽ muốn hoàn thành một bức tranh trong cùng một lần vẽ, buộc lòng phải vẽ ngay trên sơn ướt. Kết quả nhận được khi vẽ trên sơn ướt khác xa kết quả khi vẽ trên sơn đã khô. Bởi lẽ lớp sơn mới vẽ có thể trộn với lớp sơn bên dưới và tạo ra nhiều mầu trung gian. Thế là thay vì pha mầu trên khay, chúng ta có thể pha mầu ngay trên canvas khi vẽ. Cái phiền là nếu một nét vẽ không vừa ý sẽ rất khó sửa. Càng tô đi vẽ lại nhiều, sơn sẽ nhòe nhoẹt và sau cùng trở thành mầu bùn (muddy). Cách vẽ trên sơn ướt đòi hỏi những nét cọ vững chắc để những mảng mầu vẽ lên được gọn ghẽ. Kỹ thuật này cũng đòi hỏi người vẽ phải có một số vốn về phân mầu, hình dung ra được một phần mầu trên pha xuống mầu dưới sẽ cho ra mầu gì. Cách vẽ này là con đẻ của phái ấn tượng (impressionism). Alla prima – Bắt đầu là xong – không cho người ta cái cơ hội đi vào chi tiết. Nó cho người thưởng lãm cái ấn tượng về thị giác chứ không phải chỉ là đường nét và hình thể. Nhưng cái đẹp của kỹ thuật này tạo ra rất ngọan mục. Nó tạo ra cái đẹp lấp lánh vì mầu thứ ba tạo ra do những đốm mầu nằm cạnh nhau chứ không phải luôn luôn pha trộn với nhau. Và cũng chính vì thế mà đường cọ phải lướt nhẹ vững chắc và “can đảm”. Cao điểm của lối vẽ này là Impasto, dùng cọ hay bay, quệt từng mảng sơn dầy cộm lên lớp sơn còn ướt, hay mảng này chồng trên mảng kia. Impasto có thể coi là một lối vẽ riêng và dùng kỹ thuật này vẽ từ đầu tới cuối một bức tranh. Cũng có thể áp dụng impasto vào một lúc nào đó, ở một phần nào đó của bức tranh. Xử dụng impasto để vẽ, người ta khuyên nên dùng sơn pha hơi loãng để phác họa chi tiết của bức tranh trước. Làm như vậy sẽ phủ hết mầu trắng của canvas và bức tranh sẽ thống nhất hơn.

Vẽ trên sơn đã khô (Painting over dry paint): Người ta còn gọi cách vẽ này là vẽ theo từng tầng. Có nhiều người không thích vẽ thẳng lên lớp sơn bảo vệ canvas (primer, xin coi lại phần trên) mầu trắng, mà phủ lên một lớp sơn mầu khác trước khi vẽ. Lớp sơn vẽ đầu tiên này thường gọi là sơn nền, hiểu là lớp sơn phủ lên toàn thể canvas. Có nhiều người, nhất là khi vẽ những bức phong cảnh nhiều chi tiết, lại dùng một vài mầu đơn giản, xám hay nâu (miễn là loại mau khô), vẽ trước rồi sau đó mới thực sự vẽ. Đó là sơn lót. Nền hay lót, chỉ là những tiếng gọi để ta dễ nhớ một ý niệm, thế thôi (Mà biết đâu lại trở thành tiếng kỹ thuật sau này không chừng). Không được dùng mầu trắng hay mầu vàng để sơn lót hay sơn nền, vì là những mầu rất lâu khô. Dù là sơn nền hay sơn lót, theo cách “vẽ trên sơn đã khô”, thì dĩ nhiên phải để cho những lớp sơn này khô rồi mới vẽ lên. Ba đặc điểm chính của lối vẽ này là: – Vì sơn dưới đã khô nên không thấm trộn với sơn mới vẽ, không tạo ra những mầu phụ mình không thích. Cũng vì thế mà chúng ta phải pha trộn mầu trên khay. – Bức tranh có thể vẽ chi tiết hơn, vì chúng ta có thể thêm đưòng vẽ hay những lớp mầu một cách dễ dàng. – Đợi sơn khô, chúng ta có thì giờ để suy nghĩ v à phát triển bức tranh kỹ lưỡng hơn.

Vẽ cách này nên kiên nhẫn, đừng lạm dụng chất mau khô để pha vào sơn, vì như thế khi khô, sơn có thể bị nứt hay tróc ra. Để sơn mau khô, người ta pha loãng mầu với Turpentine, đặc biệt khi vẽ lót. Tuy nhiên không nên pha loãng quá vì sơn bị xỉn đi. Đi xa nhất theo lối vẽ này là Painting with glazes. Từ đầu tới cuối, bức tranh vẽ bằng sơn pha loãng với turpentine. Vẽ kiểu này tương tự như vẽ mầu nước. Lối vẽ này đã xưa cũ, chỉ còn dùng đôi chút với những lối vẽ khác, vì không tận dụng được cái hay của sơn dầu và mầu sắc không bền.

Vẽ trên nền tráng dầu (Painting over a Base of Oil): Dầu vừa là chất pha chế vừa dùng tráng nền để vẽ lên. Kỹ thuật này đặc biệt thích hợp để vẽ cảnh sương mù. Trước khi vẽ, phủ một lớp dầu mỏng (Linseed Oil) lên mặt canvas, đặc biệt những chỗ cần tạo ảo giác sương mù, hay mờ ảo như cảnh mùa đ ông trong tranh thủy mặc. Khi vẽ lên chỗ có dầu, mầu tự động loang ra tạo ra ảo giác cho người xem tranh. Kỹ thuật này giống kỹ thuật vẽ mầu nước. Tất nhiên tranh vẽ lối này rất lâu khô và hy vọng bạn không dị ứng với mùi dầu.

Vẽ những đường nhỏ cạnh nhau (Painting with Small Strokes of colour): Đây là cách vẽ được những người theo phái ấn tượng xử dụng nhiều nhất. Thay vì pha mầu sẵn từ khay, người ta pha mầu bằng cách đặt những chấm nhỏ cạnh nhau. Kết quả là mầu sắc nhìn sẽ lung linh. mầu sắc rực lên. Nói chung thì lối vẽ ấn tượng có cái dẹp của nó, mặc dù chi tiết bị bỏ qua.

QUY LUẬT CHUNG:

Ánh sáng: Điều gì quan trọng nhất cần để ý và nắm vững khi vẽ một bức tranh? Đó là ánh sáng. Ánh sáng khiến ta nhìn được cái lồi lõm của sự vật. Chính ánh sáng làm cho ta thấy được chiều sâu của cảnh trí. Chính ánh sáng giúp ta phân biệt được cái thân cây sù sì khác với mặt hồ phẳng lặng. Trước khi kết thúc bài này, xin nhắc lại vài quy luật chung mà phần lớn liên hệ đến ánh sáng. – Điểm sáng nhất trong bóng râm cũng không sáng bằng điểm tối nhất chường ra ánh sáng. Hay nói ngược lại: Điểm tối nhất của vùng chường ra ánh sáng cũng vẫn sáng hơn điểm sáng nhất trong bóng râm. Chà! Nghe có vẻ chơi chữ quá đi. Đừng cố hình dung mà mệt não. Hãy để một vật gì đó ra ngoài ánh sáng ban chiều hay ban sáng, rồi nhìn vào đó bạn sẽ thấy ngay. – Đối tượng càng ở xa, càng mờ nhạt, và có mầu sắc lạnh hơn. Đối tượng càng ở gần, có mầu ấm hơn và rõ nét. Mầu đỏ và vàng là những mầu nóng nhất. Mầu xanh dương là mầu lạnh nhất. Khi pha chúng với nhau chúng ta được những mầu trung gian, hoặc hơi ấm, hay hơi lạnh. Một vật ở gần có mầu xanh, ở xa sẽ bớt xanh. Một vật ở gần có mầu đỏ, ở xa sẽ bớt đỏ… – Giũa vùng sáng (Highlight) và vùng tối (Shadow) luôn luôn có vùng có sắc độ trung gian (Halftone). Sắc độ trung gian này quan trọng vì nó thường chiếm phần lớn diện tích bức tranh và vì nó cân bằng được hai đầu. Cần nhận diện ra sắc độ này và phác họa nó trước tiên. Điều này giúp tránh vẽ bức tranh quá sáng hay quá tối. Khi vẽ xong mới nhận ra sai lầm này thì đã quá trễ.

– Luật Phối cảnh: Đường chân trời là đường chính trong luật phối cảnh. Tầm mắt ta phóng xa sẽ ngừng lại ở đó. Những đường nằm trên đường chân trời khi chạy ra xa sẽ hạ thấp xuống và nhập với nó. Những đưòng nằm dưới đường chân trời khi chạy ra xa sẽ vươn lên cao rồi quy vào đó. Vẽ theo luật phối cảnh sẽ cho bức tranh có chiều sâu.

Hội họa và âm nhạc là hai bộ môn nghệ thuật lâu đời nhất của loài người. Không biết âm nhạc có trước – mà còn tùy định nghĩa – hay hội họa có trước, nhưng ngay khi con người còn ăn lông ở lỗ đã vẽ những hình tượng trong hang động, dù là với mục đích gì. Ngày nay nhiều bộ môn khác ra đời đặc biệt các bộ môn hiển thị (Visual Arts) như nhiếp ảnh, điện ảnh cũng vẫn không làm cho hội họa mai một.Ngay về hội họa và chỉ trên góc cạnh kỹ thuật cũng chia ra nhiều ngành: Thủy mặc, Mầu nước, Sơn mài, Mộc bản, Sơn Nước (Acrylic), Sơn dầu (Oil colour), Phấn tiên (Pastel)…Trong bài này chúng ta chỉ chú ý đến những điểm căn bản của kỹ thuật sơn dầu. Dĩ nhiên muốn vẽ, chúng ta cần vật liệu và dụng cụ rồi sau đó là đến cách vẽ.Mặt vẽ (Support):Sơn dầu có thể vẽ trên gần như bất cứ vật liệu nào như vải bố, gỗ, giấy, nhựa, miễn là vật liệu ấy không chứa độ dầu (fat) cao hơn là độ dầu chứa trong sơn dùng để vẽ. Tuy nhiên khi chọn support để vẽ, cần để ý support có thể biến dạng theo thời gian. Dù sơn dầu khá chắc và có độ co dãn nào đó sau khi khô, nhưng nếu mặt support bên dưới biến dạng nhiều sẽ làm hư lớp sơn vẽ nằm bên trên. Support càng ít biến dạng thì càng có giá trị bảo trì cao. Một họa phẩm đẹp mới vài chục năm đã bị mục, phai mầu, bong sơn, nứt nẻ, co dúm thì thật đáng buồn. Gỗ tốt, canvas dán trên bìa cứng, ván ép để vẽ là những support tốt. Tuy nhiên support thông dụng nhất vẫn là canvas căng trên khung vì:- thoáng khí để sơn dễ bay hơi, “dễ thở”, khô đi một cách tự nhiên.- Tương đối chịu được thời tiết khắc nghiệt (ít bị vênh, cong, nứt nẻ..) chứ không như những support loại khác- nhẹ. Vấn đề tưởng như không quan trọng, nhưng nếu bức họa lớn khoảng vài mét vuông nếu vẽ trên ván ép nặng vài chục ký khi cần di chuyển và treo lên rất khó khăn. Mang khoảng 20 họa phẩm như thế đi triển lãm, khiêng …bở hơi tai. Diện tích càng lớn, tỷ lệ trọng lượng vàn ép, giấy ép, plastic càng cao so với canvas căng trên khung. Môt bức họa nhỏ cỡ mặt monitor, vẽ trên support nào cũng nặng gần như nhau. Nhưng một bức họa cỡ chiếc chiếu vẽ trên ván ép có thể nặng gấp mười lần so với bức cùng cỡ vẽ trên canvas văng trên khung gỗ. .Canvas từ thế kỷ 15 đã từ từ thay thế ván gỗ, và trở nên thông dụng trong kỹ thuật tranh sơn dầu, sơn nước (Acrylic) vì những ưu điểm trên.Sơn chống dầu (Primer):Trước tiên xin đừng lộn sơn chống dầu với sơn lót (Under-painting). Chúng ta sẽ nói thêm về điểm này khi nói về cách vẽ. Tất cả những support làm bằng vật liệu thiên nhiên như gỗ, sợi organic …cần phải sơn chống dầu trước khi vẽ sơn dầu. Lớp sơn chống dầu tất nhiên là loại sơn nước có chất keo bao phủ lấy mặt vẽ. Loại sơn chống dầu thông dụng gọi là Gesso. Phải sơn ít nhất ba lớp mới an toàn. Sơn chống dầu có hai công dụng.:- Không để dầu thấm vào sợi bố, sợi organic, vì chẳng bao lâu, bố thấm dầu sẽ bị mục.- Trám những lỗ li ti của support và như thế dầu và những chất phụ pha sơn khác sẽ không bị hút quá nhiều làm mất bớt công dụng và đặc tính của sơn vẽ.Canvas đã căng trên khung và đã sơn chống dầu có bán sẵn tại các tiệm cung cấp vật liệu nghệ thuật cho họa sỹ. Canvas bầy bán đủ loại đủ cỡ.Cọ và dao (bay) (Brush and palette knife):Cọ là dụng cụ chính để vẽ. Nói thế bởi vì người ta có thể vẽ sơn dầu với bất cứ phương tiện nào: như dùng bay, một miếng móp, một chiếc khăn lông, một cái muỗng, ngay cả vói ngón tay của mình. Tuy vậy cọ vẫn được coi là dụng cụ phổ thông nhất.Tùy độ cứng mềm của lông xử dụng mà những vết cọ để lại trên sơn khác nhau. Cọ có phẩm chất cao không bị rụng lông khi vẽ, không bị tòe đầu, biến hình dạng một sớm một chiều. Cọ tốt sau khi dùng trở lại hình thể nguyên thủy và nếu bảo trì kỹ lưỡng sẽ rất bền. Nên mua cọ tốt. Cọ rẻ tiền gây nhiều phiền toái khi cẽ và mau hư. Lúc đầu nên dùng loại cọ lông tương đối mềm, vì ta có khung hướng nhấn cọ hơi mạnh; nếu dùng loại lông cứng sẽ quẹt hết sơn đi. Có nhiều nhãn hiệu khác nhau, một trong những hiệu khá thông dụng và tốt, giá phải chăng là hiệu M. Grumbacher.Chỉ cần một bộ cọ vài cái đủ để vẽ bất cứ loại tranh nào. Một người mới bắt đầu làm quen với sơn dầu chỉ cần:- Một cọ tương đối dẹp, đầu bằng, rộng 2”, để sơn những mảng tương đối lớn, hay sơn lót và một cọ dẹp đầu bằng rộng khảng 3/4”.- Một cọ fibert hay Walnut-shaped (đầu dẹp hình bầu dục, có thể hơi nhọn) khoảng nửa inch và một cọ cùng loại nhỏ hơn khoảng ¼”. Loại này rất thông dụng vì đa dụng.- Một cọ tròn nhỏ nhọn đầu (round brush) (như bút viết chữ nho) để vẽ nét mảnh. Cũng có thể dùng cọ filbert 1/4” nói trên để vẽ những nét nhỏ như cành cây, cọng cỏ.Cầm cọ như thế nào? Thật ra không có một cách cầm cọ nào nhất định cả. Tuy nhiên người ta thấy đa số họa sỹ khi cần quét những đường dài thì cầm cán cọ trong lòng bàn tay, làm thế nào để cánh tay và cườm tay di chuyển thoải mái. Còn khi vẽ những đường ngắn, thì cầm như cầm cây viết chì vây. Nếu cần vẽ những đường chính xác thì bàn tay cần một cây nhỏ như cây thước để bàn tay có thể tựa lên.Ngoài cọ ra, cũng cần một cái cái bay để trộn mầu, để cạo sơn trên khay pha mầu (palette). Bay còn là phương tiện để vẽ thông dụng thứ hai sau cọ, đặc biệt công hiệu khi vẽ trên lớp sơn còn ướt (alla prima). Người ta chỉ dùng bay từ đầu tới cuối mà vẽ được nguyên một bức tranh. Vẽ bằng bay tương đối khó nhưng không vì vậy mà không thử và luyện tập. Bay có ưu điểm là không để lại đường vết của những sợi lông như khi vẽ bằng cọ, chùi mau sạch, bền, không cần dùng hóa chất để rửa nên nơi làm việc bớt bị ô nhiễm. Vì lau sạch rất mau, nên chuyển đổi mầu rất nhanh, không bị đợi lâu mà cụt mất hứng.Sơn dầu (Oil Colour):Chất (medium) dùng pha chế mầu (pigment) của sơn dầu tất nhiên là dầu. Sơn dầu bán ngoài thị trường mang nhiều nhãn hiệu. Sơn càng đậm đặc pigment bao nhiêu mầu càng rực rỡ bấy nhiêu, và thường đắt tiền hơn. Không nhất thiết phải vẽ sơn cùng một nhãn hiệu. Một công ty nào đó chế một vài mầu khá tốt, nhưng những mầu còn lại phải mua của những hiệu khác, vì độ pigment yếu quá, sơn lỏng quá khó dùng, nhất là khi vẽ impasto (vẽ những nét đường gồ ghề) trong lối vẽ alla prima (vẽ trên lớp sơn còn ướt).Do những chất pha chế sơn khác nhau, một số mầu lâu khô hơn một số mầu khác. Mầu trắng và màu vàng (white and pale yellow) lâu khô nhất; mầu nâu (burnt umber) mau khô nhất.Có ba mầu nguyên thủy (Primary colours) là những mầu người vẽ không tự pha trộn được từ những mầu khác. Theo nguyên tắc khi pha trộn với nhau theo những tỷ lệ khác nhau mầu nguyên thủy sẽ sinh ra vô số mầu phụ. Ba mầu nguyên thủy đó là: Vàng (Process yellow/Pale yellow), Thiên thanh (Cyan/Mầu xanh dương), Đỏ hạt lựu (Process red/Magenta). Ba mầu này rất tinh tuyền- mầu này không vương chút nào hai mầu kia cả. Tất cả những mầu khác đều có thể pha ra từ ba mầu này. Trong kỹ thuật ấn loát và phân mầu (trên computer chẳng hạn) người ta ghi tắt là: YMCK (Yellow – Magenta – Cyan và Black), thực tế trong ngành in người ta thường dùng thêm mầu đen, vì độ chính xác của máy in, nhiều khi trộn ba mầu nguyên thủy không đạt được mầu đen như ý. Xin nói chuyện ngoài đề: Những nhà nghiên cứu tâm lý thấy rằng trẻ em rất mê thích mầu nguyên thủy hay những mầu sát với mầu nguyên thủy.Mầu đã được pha chế bán ngoài thị trường có khi hơi lỏng,có khi hơi đặc cho một người. Có khi lại khô chậm quá, hay khô nhanh quá. Vì vậy ngoài mầu, cũng cần có một số chất khác để giúp người vẽ dễ xử dụng mầu. Coi như cần thiết:- Dầu pha lỏng sơn: Dầu ở vào một trong hai nhóm: loại dễ bay hơi và loại không bay hơi mà khi khô thì cứng lại theo mầu.Nhóm thứ nhất để pha lỏng sơn, chùi sơn, lau cọ…biến chế từ những chất lấy từ thảo mộc hay động vật và có nhiều tên khác nhau thông như người ta gọi là Thinner hay Turpentine.. Loại không mùi, đắt tiền hơn nhưng không làm cho phòng vẽ bị ngộp. Loại đắt tiền dùng rửa cọ trong thời gian lâu không dùng sẽ giúp cọ ít bị đóng cứng.Nhóm thứ hai dùng để pha chút ít vào mầu giúp cọ đưa lướt nhẹ nhàng hơn. Nhóm này không bay hơi, từ từ khô đi và đóng cứng lại với mầu. Thông dụng nhất trong nhóm này là Linseed Oil.Trừ trường hợp cần thiết, ngoài ra không nên dùng quá nhiều chất pha sơn vì khi khô mầu bi xỉn, mất rực rỡ là một đặc tính của sơn dầu.- Có một số chất phụ khác tuy không dùng thường xuyên nhưng cũng nên biết như chất làm cho sơn mau khô, chất bảo vệ tranh khi đã hoàn tất và sơn đã thật sự khô (matte varnish/gloss varnish). Lạm dụng chất làm sơn mau khô khiến sơn sau khi khô dễ bị nứt nẻ. Chỉ dùng chất phun lên tranh để bảo vệ và tái lập cái đẹp của mầu sau khi sơn đã hoàn toàn khô, thông thường là sáu tháng đến một năm tùy lớp sơn vẽ dầy hay mỏng.Nguyên tắc căn bản: Fat Over chúng tôi dù các họa sỹ có cách vẽ riêng, nhưng có một nguyên tắc căn bản đã trở thành cố định “Sơn vẽ sau béo hơn sơn vẽ trước” (Fat over lean} hay vẽ trên nền sơn ít độ dầu. Đây là một nguyên tắc họa sỹ sơn dầu nào cũng phải tuân theo khi vẽ để tránh những sai lầm căn bản có thể làm hỏng bức tranh khi sơn khô. Fat over lean có nghĩa là mình đang vẽ sơn dầu trên một cái base ít dầu hơn.Tranh sơn dầu khô rất lâu. Có thể cần sáu tháng đến một năm mới hoàn toàn khô. Trong thời gian này, dầu tiếp xúc với không khí từ từ khô cứng lại vì ốc-xít hóa và hơi co lại một chút. Nếu ta vẽ “lean over fat”, hiểu là ta ta đang dùng turpentine pha loãng sơn ra và dùng nó vẽ trên lớp sơn dầu (chưa khô hẳn), như vậy lớp trên sẽ khô nhanh vì ít dầu hơn. Khi lớp dước khô sau sẽ khiến bức tranh bị bong ra hoặc nứt nẻ. Bởi vậy khi vẽ sơn dầu, ta luôn luôn nhớ nguyên tắc “Fat Over Lean”. Có nhiều cách vẽ fat over lean:- từ từ tăng độ dầu trong sơn, khi vẽ.- giảm bớt lượng dầu (pha loãng với turpentine) trong những lớp sơn đầu khi vẽ.- Dùng những mầu sơn khô mau để vẽ nền (xin coi lại đoạn nói về sơn dầu).Vẽ trên sơn còn ướt (Alla prima):Sơn dầu lâu khô. Người vẽ muốn hoàn thành một bức tranh trong cùng một lần vẽ, buộc lòng phải vẽ ngay trên sơn ướt. Kết quả nhận được khi vẽ trên sơn ướt khác xa kết quả khi vẽ trên sơn đã khô. Bởi lẽ lớp sơn mới vẽ có thể trộn với lớp sơn bên dưới và tạo ra nhiều mầu trung gian. Thế là thay vì pha mầu trên khay, chúng ta có thể pha mầu ngay trên canvas khi vẽ. Cái phiền là nếu một nét vẽ không vừa ý sẽ rất khó sửa. Càng tô đi vẽ lại nhiều, sơn sẽ nhòe nhoẹt và sau cùng trở thành mầu bùn (muddy). Cách vẽ trên sơn ướt đòi hỏi những nét cọ vững chắc để những mảng mầu vẽ lên được gọn ghẽ. Kỹ thuật này cũng đòi hỏi người vẽ phải có một số vốn về phân mầu, hình dung ra được một phần mầu trên pha xuống mầu dưới sẽ cho ra mầu gì.Cách vẽ này là con đẻ của phái ấn tượng (impressionism). Alla prima – Bắt đầu là xong – không cho người ta cái cơ hội đi vào chi tiết. Nó cho người thưởng lãm cái ấn tượng về thị giác chứ không phải chỉ là đường nét và hình thể.Nhưng cái đẹp của kỹ thuật này tạo ra rất ngọan mục. Nó tạo ra cái đẹp lấp lánh vì mầu thứ ba tạo ra do những đốm mầu nằm cạnh nhau chứ không phải luôn luôn pha trộn với nhau. Và cũng chính vì thế mà đường cọ phải lướt nhẹ vững chắc và “can đảm”.Cao điểm của lối vẽ này là Impasto, dùng cọ hay bay, quệt từng mảng sơn dầy cộm lên lớp sơn còn ướt, hay mảng này chồng trên mảng kia. Impasto có thể coi là một lối vẽ riêng và dùng kỹ thuật này vẽ từ đầu tới cuối một bức tranh. Cũng có thể áp dụng impasto vào một lúc nào đó, ở một phần nào đó của bức tranh. Xử dụng impasto để vẽ, người ta khuyên nên dùng sơn pha hơi loãng để phác họa chi tiết của bức tranh trước. Làm như vậy sẽ phủ hết mầu trắng của canvas và bức tranh sẽ thống nhất hơn.Vẽ trên sơn đã khô (Painting over dry paint):Người ta còn gọi cách vẽ này là vẽ theo từng tầng. Có nhiều người không thích vẽ thẳng lên lớp sơn bảo vệ canvas (primer, xin coi lại phần trên) mầu trắng, mà phủ lên một lớp sơn mầu khác trước khi vẽ. Lớp sơn vẽ đầu tiên này thường gọi là sơn nền, hiểu là lớp sơn phủ lên toàn thể canvas. Có nhiều người, nhất là khi vẽ những bức phong cảnh nhiều chi tiết, lại dùng một vài mầu đơn giản, xám hay nâu (miễn là loại mau khô), vẽ trước rồi sau đó mới thực sự vẽ. Đó là sơn lót. Nền hay lót, chỉ là những tiếng gọi để ta dễ nhớ một ý niệm, thế thôi (Mà biết đâu lại trở thành tiếng kỹ thuật sau này không chừng). Không được dùng mầu trắng hay mầu vàng để sơn lót hay sơn nền, vì là những mầu rất lâu khô.Dù là sơn nền hay sơn lót, theo cách “vẽ trên sơn đã khô”, thì dĩ nhiên phải để cho những lớp sơn này khô rồi mới vẽ lên. Ba đặc điểm chính của lối vẽ này là:- Vì sơn dưới đã khô nên không thấm trộn với sơn mới vẽ, không tạo ra những mầu phụ mình không thích. Cũng vì thế mà chúng ta phải pha trộn mầu trên khay.- Bức tranh có thể vẽ chi tiết hơn, vì chúng ta có thể thêm đưòng vẽ hay những lớp mầu một cách dễ dàng.- Đợi sơn khô, chúng ta có thì giờ để suy nghĩ v à phát triển bức tranh kỹ lưỡng hơn.Vẽ cách này nên kiên nhẫn, đừng lạm dụng chất mau khô để pha vào sơn, vì như thế khi khô, sơn có thể bị nứt hay tróc ra. Để sơn mau khô, người ta pha loãng mầu với Turpentine, đặc biệt khi vẽ lót. Tuy nhiên không nên pha loãng quá vì sơn bị xỉn đi.Đi xa nhất theo lối vẽ này là Painting with glazes. Từ đầu tới cuối, bức tranh vẽ bằng sơn pha loãng với turpentine. Vẽ kiểu này tương tự như vẽ mầu nước. Lối vẽ này đã xưa cũ, chỉ còn dùng đôi chút với những lối vẽ khác, vì không tận dụng được cái hay của sơn dầu và mầu sắc không bền.Vẽ trên nền tráng dầu (Painting over a Base of Oil):Dầu vừa là chất pha chế vừa dùng tráng nền để vẽ lên. Kỹ thuật này đặc biệt thích hợp để vẽ cảnh sương mù. Trước khi vẽ, phủ một lớp dầu mỏng (Linseed Oil) lên mặt canvas, đặc biệt những chỗ cần tạo ảo giác sương mù, hay mờ ảo như cảnh mùa đ ông trong tranh thủy mặc. Khi vẽ lên chỗ có dầu, mầu tự động loang ra tạo ra ảo giác cho người xem tranh. Kỹ thuật này giống kỹ thuật vẽ mầu nước. Tất nhiên tranh vẽ lối này rất lâu khô và hy vọng bạn không dị ứng với mùi dầu.Vẽ những đường nhỏ cạnh nhau (Painting with Small Strokes of colour):Đây là cách vẽ được những người theo phái ấn tượng xử dụng nhiều nhất. Thay vì pha mầu sẵn từ khay, người ta pha mầu bằng cách đặt những chấm nhỏ cạnh nhau. Kết quả là mầu sắc nhìn sẽ lung linh. mầu sắc rực lên. Nói chung thì lối vẽ ấn tượng có cái dẹp của nó, mặc dù chi tiết bị bỏ qua.Ánh sáng:Điều gì quan trọng nhất cần để ý và nắm vững khi vẽ một bức tranh? Đó là ánh sáng. Ánh sáng khiến ta nhìn được cái lồi lõm của sự vật. Chính ánh sáng làm cho ta thấy được chiều sâu của cảnh trí. Chính ánh sáng giúp ta phân biệt được cái thân cây sù sì khác với mặt hồ phẳng lặng. Trước khi kết thúc bài này, xin nhắc lại vài quy luật chung mà phần lớn liên hệ đến ánh sáng.- Điểm sáng nhất trong bóng râm cũng không sáng bằng điểm tối nhất chường ra ánh sáng. Hay nói ngược lại: Điểm tối nhất của vùng chường ra ánh sáng cũng vẫn sáng hơn điểm sáng nhất trong bóng râm. Chà! Nghe có vẻ chơi chữ quá đi. Đừng cố hình dung mà mệt não. Hãy để một vật gì đó ra ngoài ánh sáng ban chiều hay ban sáng, rồi nhìn vào đó bạn sẽ thấy ngay.- Đối tượng càng ở xa, càng mờ nhạt, và có mầu sắc lạnh hơn. Đối tượng càng ở gần, có mầu ấm hơn và rõ nét. Mầu đỏ và vàng là những mầu nóng nhất. Mầu xanh dương là mầu lạnh nhất. Khi pha chúng với nhau chúng ta được những mầu trung gian, hoặc hơi ấm, hay hơi lạnh. Một vật ở gần có mầu xanh, ở xa sẽ bớt xanh. Một vật ở gần có mầu đỏ, ở xa sẽ bớt đỏ…- Giũa vùng sáng (Highlight) và vùng tối (Shadow) luôn luôn có vùng có sắc độ trung gian (Halftone). Sắc độ trung gian này quan trọng vì nó thường chiếm phần lớn diện tích bức tranh và vì nó cân bằng được hai đầu. Cần nhận diện ra sắc độ này và phác họa nó trước tiên. Điều này giúp tránh vẽ bức tranh quá sáng hay quá tối. Khi vẽ xong mới nhận ra sai lầm này thì đã quá trễ.- Luật Phối cảnh:Đường chân trời là đường chính trong luật phối cảnh. Tầm mắt ta phóng xa sẽ ngừng lại ở đó. Những đường nằm trên đường chân trời khi chạy ra xa sẽ hạ thấp xuống và nhập với nó. Những đưòng nằm dưới đường chân trời khi chạy ra xa sẽ vươn lên cao rồi quy vào đó. Vẽ theo luật phối cảnh sẽ cho bức tranh có chiều sâu.

Trung tâm gia sư Nhân Văn

VP : THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VP 1 : 109 TÂN LẬP 2 , P.HIỆP PHÚ, QUẬN 9VP 2 :294 HÒA HƯNG, P.13, QUẬN 10

VP 3 : ĐIỆN BIÊN PHỦ, P.22, Q.BÌNH THẠNH

VP 4: 453/94 NGUYỄN THỊ MINH KHAI KP 3 P, PHÚ HÒA BÌNH DƯƠNG(ĐỐI DIỆN TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ HÒA 3)

VP : HÀ NỘI

NGÕ 22 TÔN THẤT TÙNG ĐỐNG ĐA HÀ NỘI

Điện Thoại : 028 3539 1819 Di Động : 0987 927 505 – 0907 750 044- 0919 138 768 – 0972 383848

Dạy Học Kỹ Thuật Bơi Ếch Đúng Kỹ 100% Thuật Giá Rẻ

Tập kỹ thuật bơi ếch đối với chân

Đầu tiên, bạn sẽ ngồi ở vị trí thành bể, hai chân lo lại và mở rộng sang hai bên. Lòng bàn chân hướng ra phía ngoài giống với chân của ếch.

Sau đó, đạp mạnh chân sang hai bên và khép hai chân lại thật nhanh, đồng thời duỗi thẳng lại như lúc ban đầu.

Đối với chân trong dạy học bơi ếch sẽ có 2 bước cơ bản và quan trọng đó là bơi trên ca và bơi dưới nước. Cụ thể:

Tập chân bơi trên cạn

Tập chân bơi dưới nước

Khi tập dưới nước, tay bạn vịn vào thành bể hoặc ván tập, sau đó tập đạp chân như vừa tập ở trên cạn. Hãy tập ở những nơi cần nước hoặc ngang người để tránh nguy hiểm.

Tập kỹ thuật bơi ếch với tay

Đứng hơi khom người về phía trước, hai tay duỗi thẳng, lòng bàn tay hướng vào nhau và nghiêng khoảng 45 độ so với mặt sàn.

Dùng hai tay đẩy mạnh sang hai bên đến khi cánh tay gần thẳng với hai vai, lòng bàn tay hướng ra phía ngoài.

Sau đó nhanh chóng thu hai tay lại và thực hiện lại động tác này.

Tương tự như tập động tác chân, kỹ thuật bơi ếch đúng chuẩn với tay cũng được thực hiện với hai nước là tập trên cạn và tập dưới nước:

Tập bơi tay trên cạn

Sẽ an toàn và đúng kỹ thuật hơn nếu có huấn luyện viên

Tập bơi tay dưới nước

Cũng sẽ thực hiện động tác khom người sao cho bàn tay cách mặt nước khoảng 10cm. Lòng bàn tay và cánh tay duỗi thẳng, vừa đi vừa quạt nước giống với thao tác tập trên cạn.

Kỹ thuật thở khi tập bơi ếch

Sau khi luyện tập xong động tác tay và chân chúng ta sẽ tiến hành kỹ thuật thở. Khi bơi ếch, kỹ thuật thở rất quan trọng, bạn sẽ thở bằng miệng khi đầu chìm xuống nước. Sau đó, là trườn người về phía trước, khi vai nâng đầu lên thì bạn sẽ hít vào. Hãy thực hiện cẩn thận nếu không rất dễ bị sặc nước.

Kỹ thuật phối hợp đều đặn giữa tay và chân khi học bơi ếch

Người tập sẽ đứng khuỵu gối xuống, hay tay đưa lên đến ngang ngực.

Sau đó đứng thẳng, hai tay đưa thẳng lên trời, kéo mạnh tay về, khép hai cánh tay lại và chân duỗi thẳng thở đều.

Trong dạy học bơi ếch, kỹ thuật phối hợp linh hoạt giữa tay và chân là điều rất quan trọng và cần phải tập luyện đúng. Cụ thể:

Tập kỹ thuật phối hợp tay chân ở trên cạn

Tập kỹ thuật phối hợp tay chân ở dưới nước

Khi đã tập thuần thục động tác này ở trên bạn, bạn sẽ thực hành ở dưới nước. Khi xuống nước, bạn có thể tập liên hoàn với các động tác như ở trên cạn để tăng thêm sự thuần thục về kỹ năng.

Tuy nhiên, để có thể bơi ếch tốt nhất, đúng chuẩn cần phải có huấn luyện viên chuyên nghiệp giảng dạy, vừa đảm bảo an toàn vừa đảm bảo đúng kỹ năng khi bơi.

Địa chỉ nào dạy học bơi ếch đúng kỹ thuật và giá rẻ?

Hiện nay trên địa bàn thành phố HCM nói riêng, có rất nhiều trung tâm dạy bơi chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Dạy Bơi Việt Nam vẫn luôn là một trung tâm được rất nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn. Với sứ mệnh trang trị cho tất cả mọi người những kỹ năng về bơi lội, do ậy Dạy Bơi Việt Nam nhận dạy bơi cho tất cả mọi người với mọi lứa tuổi khác nhau.

Dạy Bơi Việt Nam không chỉ giúp bạn có được những kỹ năng về bơi lội chính xác mà còn hy vọng, tất cả mọi người đều có những phút giây được thư giãn, thú vị và vui vẻ khi lựa chọn chúng tôi. Mọi thắc mắc hoặc muốn đăng ký được dạy học bơi ếch, hãy liên hệ với Dạy Bơi Việt Nam theo thông tin sau.