Top 10 # Xem Nhiều Nhất Soạn Bài Ngữ Văn Vào Phủ Chúa Trịnh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Techcombanktower.com

Soạn Bài: Vào Phủ Chúa Trịnh

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Lê Hữu Trác (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Vào phủ chúa Trịnh được trích trong tác phẩm Thượng kinh kí sự (Kí sự đến kinh đô) của tác giả Lê Hữu Trác. Đoạn trích nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cấn.

* Thể loại: Văn bản được viết bằng thể kí sự – một thể loại văn học mới xuất hiện ở thế kỉ XVIII, ghi chép những câu chuyện, những sự việc có thực và tương đối hoàn chỉnh.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh được miêu tả khá tỉ mỉ từ ngoài vào trong, từ bao quát đến cụ thể.

Phải đi qua mấy lần cửa, năm sáu lần trướng gấm

Được canh giữ rất nghiêm ngặt

Cảnh trí ở đây cũng khác lạ: cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, vườn hoa đầy sắc hương, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau.

Trong phủ là những đại đồng, quyền bổng, gác tía, kiệu son, mâm vàng chén bạc

Nội cung thế tử có sập vàng, ghế rộng, nệm gấm, màn là, hương hoa ngào ngạt,…

* Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa:

Trong phủ có nhiều loại quan và người phục địch, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan đi lại như mắc cửi.

Lời lẽ nhắc đến chúa và thế tử đều phải hết sức cung kính và lễ độ.

Chúa phải có phi tần chầu chực, tác giả cũng không được nhìn thấy mặt chúa, tất cả chỉ làm theo lệnh và thông qua quan chánh đường

Thế tử mặc dù chỉ mới là một đứa bé khoảng 5 – 6 tuổi, lúc nào cũng có tới 7 – 8 thầy thuốc túc trực bên cạnh và có người hầu cận 2 bên. Khi vào xem mạch lẫn khi lui ra, người thầy thuốc đều phải cúi lạy cung kính.

* Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa:

Được thể hiện trực tiếp thông qua cách quan sát, những lời nhận xét và những lời bình giá của tác giả

Câu 2:

* Những chi tiết trong đoạn trích được cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm là:

Chi tiết đối lập: thế tử – một đứa bé – ngồi chễm trệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban cho một lời khen “rất trẻ con”: Ông này lạy khéo!

Khi đọc đến chi tiết này, chắc hẳn chúng ta đều đã biết được nguyên nhân gây ra căn bệnh của thế tử Cán. Một đứa trẻ có tuổi đời còn quá nhỏ nhưng lại bị kìm kẹp nơi thâm cung thiếu sinh khí tự nhiên để sống.

Ngoài ra, truyện cũng còn nhiều chi tiết khác rất độc đáo và sắc sảo để giúp người đọc thấy được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa Trịnh.

Câu 3:

Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ sâu sắc của nhà văn:

Câu 4:

Bút pháp kí sự của tác giả có điểm đặc sắc:

Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo, kết hợp với bút pháp tả cảnh sinh động

Nội dung ghi chép trung thực

Cách kể chuyện khôn khéo, lôi cuốn và hấp dẫn. Đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và sự việc.

Giọng điệu thấp thoảng ý mỉa mai, hài hước.

Theo chúng tôi

trắc nghiệm tin học bài 10 lớp 12

Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh

Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)

Tóm tắt

Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.

Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.

– Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.

– Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác

Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

* Quang cảnh trong phủ Chúa

– Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.

– Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

– Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.

– Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc

– Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm

– Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che

⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng

* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

– Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường

– Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi

– Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.

– Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa

– Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch

– Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về

⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.

* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ

– Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất

– “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.

– Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.

Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hưu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm

– Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

– Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị

Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện

– Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy

– Tả cảnh sinh động

– Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc

Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)

* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh

* Khác nhau:

– Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ

+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân

+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối

+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại

– Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác

+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực

+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo

+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác

Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Trang 3 Sgk Ngữ Văn 11

Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh trang 3 SGK Ngữ Văn 11

1. Thể loại: Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân.

I. Tác giả, tác phẩm

a) Tác giả- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ ở Hà Tĩnh. Ông là một danh y đồng thời là nhà văn nhà thơ lớn.

b) Tác phẩm

– Thể loại: Kí sự.

– Viết bằng chữ Hán miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe , nhân dịp Lê Hữu Trác được chúa Trịnh Sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.

– Bố cục:

+ Phần 1: Từ đầu đến ” không có dịp”: Quang cảnh bên ngoài phủ chúa.

+ Phần 2: Còn lại: Cảnh nội dung.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào? a. Quang cảnh trong phủ chúa:

– Âm thầm quan sát, người thầy thuốc phát hiện ra rằng: vào phủ chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ớ mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”, trong khuôn viên phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền bá mệnh lệnh ra bên ngoài. Vườn hoa trong phủ chúa “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.

– Bên trong phủ bày biện toàn những đồ sang trọng như: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Trong nội cung thế tử cũng vậy: phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”.

Có thể nói, chính những gì đang hiển hiện ra trước mắt người đọc đã tự nói lên tất cả cái quyền uy tối thượng đang nằm trong tay nhà chúa cũng như nếp hướng thụ cực kì xa xỉ của Trịnh Sâm và gia đình chúa.

b. Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:

– Đầu tiên, khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh của chúa thì có “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường”. “Cáng chạy như ngựa lồng” khiến người trong cáng “bị xốc một mẻ, khổ không nói hết”. Trong phủ chúa, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.

– Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ (“Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà” (cho thế tử uống thuốc), “phòng trà” (nơi thế tử uống thuốc),…).

– Trong cuộc tiếp kiến ấy, tác giả cũng không được thấy mặt chúa. Tất cả những mệnh lệnh của chúa đểu được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải “nín thở” khi đứng chờ ở xa và “khúm núm” khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.

c. Cách nhìn của tác giả:

Những chi tiết vừa nêu là những ghi chép chân thực, sắc sảo về cuộc sống xa hoa nơi phú chúa đồng thời cũng kín đáo bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của người thầy thuốc giàu y đức.

2. Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

– Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất “đắt”, thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng. Ví như chi tiết đối lập: thế tử – mội đứa bé – ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban một lời khen “rất trẻ con”: “Ông này lạy khéo !“. Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…”.

– Truyện còn có nhiều chi tiết khác cũng sắc sảo như vậy: chi tiết miêu tả nơi “Thánh thượng đang ngự” (“có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”), rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng,..

3. Cách chẩn đoán và chữ bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?

Dõi theo từng bước đi của người thầy thuốc, người đọc có thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ khá sâu sắc của nhà văn:

– Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường”. Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong bài thơ ấy, tác giả đã phải thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây!”.

+ Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.

+ Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: ‘Vì thế tử ỡ trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.

Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất này, đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ khồng đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.

– Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử còn diễn biến phức tạp hơn. Thăm bệnh xong, người thầy thuốc đã hiểu được rõ nguyên nhân căn bệnh của thái tử. Ông đưa ra những luận giải rất hợp lí, có cách chữa trị riêng. Nhưng trong lúc ấy, ông lại lo nếu chữa bệnh hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, lúc đó lại bị trói buộc bởi vòng danh lợi. Thoáng nghĩ đến việc kê một đom thuốc vô thướng, vô phạt nhưng rồi ông lại quên ý nghĩ đó ngay. Việc làm ấy trái với y đức, trái với lương tâm ông và thậm chí phụ lòng trung của tổ tiên. Hai suy nghĩ đó giằng co, xung đột với nhau. Cuối cùng ông đã chọn theo lương tâm, phẩm chất của người thầy thuốc. Ông thẳng thắn đưa ra bài thuốc của mình – một bài thuốc trái với ý của nhiều người khiến quan Chánh đường thậm chí có ý đắn đo.

Từ những chi tiết về việc chữa bệnh của thầy thuốc Lê Hữu Trác, có thể thấy:

+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.

+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.

+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.

– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.

– Nội dung ghi chép trung thực.

– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.

III. LUYỆN TẬP

So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.

Bài làm

Điểm chung của đa số các tuỳ bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.

Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.

Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tuy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí ĐặngThuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại)

IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO

“… Khoảng năm Giáp Ngọ (1774), ất Mùi (1775) trong nước vô sự, Trịnh Sâm lưu ý về việc chơi đèn đuốc, thường ngự chơi các li cung ở trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy; việc xây dựng đình đài khởi làm luôn mãi. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ngự chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu quanh bốn mặt bờ hồ, các kẻ nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, dàn bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.

Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các hóa vật như các cửa hàng buôn trong chợ. Cũng có lúc bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay ngồi ở bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc âm.

Thời ấy, phàm bao nhiêu những loài trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều cho thu lấy, không thiếu một thứ gì. Từng thấy lấy một cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại phải bốn người đi kèm đều cầm gươm, cầm thanh la để đốc thúc quân lính khiêng cho có điều độ. Trong phủ chúa tùy chỗ mà điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết là cái triệu bất tường! Kẻ hoạn quan cung giáp lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dậm dọa. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào lồng chim hay chậu cây. Đêm đến, các cậu trèo qua cung tường lẻn ra, sai bọn tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho (chủ nhà) cái tội đem dìm giấu các vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền. Nếu hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Các nhà giàu có bị vu cho là đem giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ hoặc đốt bỏ cây cảnh để tránh khỏi phải tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường có trồng hai cây lựu trắng và lựu đỏ kết quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cả, cũng là vì cớ ấy.”

(Phạm Đình Hổ – Việc cũ trong phủ chúa Trịnh)

Soạn Vào Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết

I.

Hướng dẫn soạn Vào phủ chúa Trịnh phần tác giả, tác phẩm

Cũng như các bài soạn văn khác, bài soạn văn 11 Vào phủ chúa Trịnh cần có phần khái quát về tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả 

Nguồn: Internet

Lê Hữu Trác (1724 – 1791) ông quê ở trấn Hải Dương, là người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên). Ông còn được người đời biết đến với một danh xưng nổi tiếng khác là Hải Thượng Lãn Ông. Ông là một danh y xuất sắc trong thời trung đại Việt Nam. Ông được nhân dân kính trọng vì tài năng y thuật và cả tấm lòng nhân hậu. 

Chính vì dành cả đời để cống hiến sức mình cho y học, Lê Hữu Trác đã để lại cho đời công trình nghiên cứu đồ sộ và giàu giá trị. Đó là Bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển. Tác phẩm của ông có thể xem là quyển “nhật kí” của cuộc đời ông vì ghi lại toàn bộ hành trình ông lặn lội khắp mọi miền quê để mang đức độ và y thuật của mình chữa bệnh cứu người. Tác phẩm có lẽ không chỉ đơn thuần ghi lại những bài thuốc, những câu chuyện hay các lần gặp gỡ của ông với nhân dân mà chất chứa cả những cảm xúc, nỗi niềm của một người hết lòng với người, với đời. Những câu chuyện, những dòng viết về cảm xúc của Lê Hữu Trác đã giúp cho tác phẩm trở thành một đóng góp giàu giá trị cho văn học Việt Nam.

2. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

Nguồn: Internet

Trong bài soạn Vào phủ chúa Trịnh Ngữ văn 11 chắc chắn không thể thiếu những dòng viết về tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích nằm trong tập kí sự “Thượng kinh kí sự” (Kí sự đến kinh đô). Đây là tập kí sự được hoàn thành vào năm 1783, được xếp ở cuối của công trình “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”. Tập kí sự được viết bằng chữ Hán và ghi lại những sự việc, những câu chuyện có thật và tương đối hoàn chỉnh.

Nội dung của tập kí sự nói về những điều tai nghe mắt thấy của Lê Hữu Trác khi nhận lệnh vào kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán khi ông đang sống cuộc sống thanh nhàn ở chốn Hương Sơn. Chuyến đi kéo dài khoảng 9 tháng 20 ngày. Trong hành trình ấy, tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh đã giúp ông ghi lại quang cảnh kinh đô, đặc biệt là cuộc sống giàu sang, xa hoa của chúa Trịnh. Qua đó, tác phẩm đã bộc lộ rõ thái độ coi thường danh lợi của tác giả.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nằm ở phần đầu của tác phẩm, kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán.

II. Hướng dẫn soạn Vào phủ chúa Trịnh chi tiết

Blog Kiến Guru sẽ hướng dẫn soạn văn Vào phủ chúa Trịnh qua hai phần chính: Cuộc sống trong phủ chúa Trịnh và nhận xét về Lê Hữu Trác qua đoạn trích.

1. Cuộc sống trong phủ chúa Trịnh

a. Quang cảnh phủ chúa

Phủ chúa theo miêu tả của Lê Hữu Trác là một nơi được xây dựng uy nghi, mỹ lệ bởi kết cấu và cách bài trí của nó.

Về kết cấu, phủ chúa là nơi muốn vào được phải qua nhiều lần cửa với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, cửa nào cũng có vệ sĩ canh gác cẩn mật và hơn hết phải có thẻ thì mới có thể cân nhắc cho vào hay không.

Nguồn: Internet

Cách trang trí của phủ chúa cũng cho thấy có sự đầu tư cẩn trọng. Vườn phủ là nơi có “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Bên trong phủ toàn là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” với toàn những kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng còn đồ tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Đến nội cung của thế tử cũng phải trải qua năm sáu, lần trướng gấm và đồ nội thất cũng được đầu tư chẳng hề kém cạnh khu vực nào trong phủ.

b. Cung cách sinh hoạt

Cung cách sinh hoạt trong phủ là minh chứng rõ rệt cho quyền uy tối cao và nếp sống hưởng thụ cực kì xa hoa của chúa Trịnh và người thân trong gia đình. Trước hết, ai bước vào phủ sẽ có “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” còn “người giữ cửa thì truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Không chỉ vậy, những lời nhắc đến chúa cũng đều thể hiện thái độ hết sức cung kính, chẳng hạn như: “Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông Cung thế tử”, “hầu trà”,… Riêng chúa Trịnh thì luôn có “phi tần chầu trực”, thầy thuốc vào thăm bệnh cho thế tử cũng chỉ làm theo mệnh lệnh chúa thông qua quan Chánh đường mà không được thấy mặt chúa. 

Xem Thêm: 

Tóm Tắt vào phủ chúa Trịnh

Soạn Văn Tự Tình siêu hay

Soạn văn bài câu cá mùa thu nhanh nhất

2. Nhận xét về Lê Hữu Trác qua đoạn trích

a. Là một thầy thuốc có tài năng y thuật

Tài năng ý thuật của Lê Hữu Trác được khẳng định vì có giỏi giang và dày dặn kinh nghiệm thì mới được chúa Trịnh – vốn là người vô cùng cẩn thận, triệu vào kinh để chữa cho thế tử. Lê Hữu Trác cũng hiểu rất rõ căn bệnh của thế tử và rất thẳng thắn, quyết đoán trong cách thuyết phục chúa Trịnh nghe theo những chẩn đoán của mình để chữa đúng bệnh cho thế tử. Mặc dù, ý kiến của ông trái lại với đa số các thầy thuốc khác.

b. Là một thầy thuốc có y đức

Vốn là một người xem thường danh lợi, thích nếp sống thanh đạm, mặc dù có quyền yêu cầu có một cuộc sống đủ đầy hơn về vật chất cho xứng với tài năng của mình nhưng Lê Hữu Trác không mảy may nghĩ đến việc vun vén cuộc sống xa hoa cho bản thân, dù chỉ một lần. Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. 

Hơn hết, chính lương tâm và phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã giúp tác giả đưa ra lựa chọn gạt sở thích sống ẩn dật, “lánh đục tìm trong” để làm tròn sứ mệnh của người thầy thuốc.

c. Là một tác giả văn học tài năng

Qua tác phẩm có thể thấy ở Lê Hữu Trác khi ở vai trò là một văn nhân cũng hết sức tài giỏi, khéo léo. Điều đó được thể hiện qua cách quan sát tỉ mỉ, kể hay tả đều sinh động và thu hút. Bên cạnh đó, tác giả cũng rất trau chuốt ngay cả với những chi tiết nhỏ và không quên bộc lộ dấu ấn cá nhân và đan xen suy nghĩ, tâm trạng riêng của bản thân.

Thông qua những gợi ý trên, việc soạn Vào phủ chúa Trịnh chắc chắn sẽ không có gì là nặng nề, đúng không các bạn? Tóm lại, với việc soạn Vào phủ chúa Trịnh Ngữ Văn 11 trước giờ học trên lớp, các bạn có thể hình dung được phần nào quyền lực to lớn và cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Cùng với đó là thái độ sống xem thường danh lợi của tác giả. Về nghệ thuật, văn bản đã cho thấy lối kể hấp dẫn, sự kết hợp khéo léo giữa văn xuôi và thơ, sự miêu tả tỉ mỉ và cụ thể và đặc biệt là chất thật của người, của việc.