Top 7 # Xem Nhiều Nhất Cách Vẽ Sans Error Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Techcombanktower.com

Tập San Là Gì? Cách Làm Và Thiết Kế Tập San Đẹp, Độc Đáo

Tập san được nhiều người quan tâm, chú trọng tìm đọc trong mỗi lĩnh vực nhất định vì nó cung cấp rất nhiều thông tin bổ ích. Người xem không chỉ quan tâm đến nội dung thu hút, chứa đựng thông tin ý nghĩa mà còn quan tâm đến hình thức trình bày dễ đọc, dễ hiểu cùng hình ảnh cuốn hút.

Tập san là gì?

Tập san được xuất bản trong nhiều lĩnh vực, nhiều loại khác nhau, ví dụ như tập san y học thực hành, tập san văn phòng, tập san văn học, tập san chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11…

Nội dung tập san

Để làm một tập san đẹp và ý nghĩa, bạn cần phải xác định bố cục một tập san để định hướng nội dung và thiết kế. Thông thường, tập san sẽ có bố cục gồm các phần sau:

– Lời giới thiệu, lời ngỏ tập san

Trong phần này, bạn sẽ dẫn dắt người đọc để giới thiệu nội dung chính bằng lời văn cuốn hút, đầy sức thuyết phục đến người đọc và thể hiện những sự sáng tạo trong cách đánh giá, nhận định cá nhân về ý nghĩa của nội dung chính.

Hình thức trình bày tốt như các dẫn chứng, ví dụ minh hoạ cụ thể, sinh động cũng là điểm cộng khiến người đọc có những ấn tượng tốt ban đầu về nội dung tập san.

Điều cần tránh ở phần này là không giới thiệu được nội dung chính hoặc trình bày quá dài dòng, lan man gây cảm giác nhàm chán đến người nghe, người đọc.

– Nội dung chính

Ngoài ra, bạn cần thể hiện lời cảm ơn chân thành, sâu sắc của những người đã xây dựng, đóng góp nội dung, ý tưởng cho tập san và cảm ơn người xem, người đọc đã quan tâm đến sản phẩm cùng mong muốn nhận được những ý kiến, đánh giá, góp ý tích cực từ người xem, người đọc.

Cách làm tập san đẹp, độc đáo

Phân công công việc: Sau khi lên ý tưởng, bạn cần phân công công việc cụ thể cho từng thành viên phụ thuộc vào thế mạnh của mỗi người, bao gồm bộ phận nội dung, hình ảnh và thiết kế. Trong quá trình làm việc, mọi người có thể trao đổi, góp ý trình bày quan điểm để phối hợp, thống nhất nội dung và hình thức thể hiện.

Phân chia số lượng trang: Bạn cũng nên phân bổ những nội dung phù hợp với số trang. Nếu là nội dung chính bạn cần thể hiện chi tiết, cụ thể với số trang nhiều hơn so với nội dung phụ. Chính vì lý do này, bạn cần xác định nội dung chính, nội dung phụ để thiết kế phù hợp.

– Thiết kế tập san

Tập san nên thể hiện điểm đặc biệt bằng các ý tưởng sáng tạo từ các tiểu tiết đến tổng thể bởi các hình ảnh mới lạ nhưng đầy ý nghĩa luôn được đánh giá cao, dễ dàng thu hút người xem. Các ý tưởng thiết kế luôn xuất phát từ những hình ảnh quen thuộc nhưng được cách điệu, làm mới bằng các hình thức, chất liệu khác nhau.

Khái Niệm Về Rạn San Hô

Rạn san hô là cấu trúc khoáng canxi (aragonit) được tạo bởi các cơ thể sống. Các rạn san hô thường được thấy ở các vùng biển nhiệt đới nông mà trong nước có ít hoặc không có dinh dưỡng.

* Xin cho biết khái niệm về rạn san hô và ích lợi cũng như nguy cơ bị phá hủy của các rạn san hô?

Chị Nguyễn Kim Liên, huyện Bình Lục, Hà Nam

Rạn san hô là cấu trúc khoáng canxi (aragonit) được tạo bởi các cơ thể sống. Các rạn san hô thường được thấy ở các vùng biển nhiệt đới nông mà trong nước có ít hoặc không có dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao chẳng hạn như nước thải từ các vùng nông nghiệp có thể làm hại rạn san hô do sự phát triển nhanh của tảo.

Tại hầu hết các rạn san hô, sinh vật thống trị là các loài san hô đá, các quần thể thích ti (Cnidaria) tạo ra bộ xương ngoài bằng cacbonat canxi (CaCO3). Sự tích lũy các chất tạo xương, bị phá vỡ và dồn đống bởi sóng biển và sự xâm thực sinh học, tạo nên cấu trúc đá vôi lớn nâng đỡ san hô đang sống và làm chỗ trú ẩn cho rất nhiều loài động thực vật khác.

Các rạn san hô Việt Nam phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện tích khoảng 1.122km2, tập trung nhiều ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa với khoảng 400 loài trong tổng số 800 loài trên thế giới. Những rạn san hô bảo vệ tốt sẽ tạo ra môi trường sinh thái của hàng nghìn loài sinh vật đáy và cá, trong đó có cả những loài hải sản quý.

Các hoạt động của con người tiếp tục là mối đe dọa lớn nhất và duy nhất đối với các rạn san hô trong các đại dương của Trái Đất. Cụ thể, sự ô nhiễm và lạm dụng nghề cá là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với các hệ sinh thái này. Sự phá hoại về vật lý đối với các rạn san hô do giao thông hàng hải gây ra cũng là một vấn đề.

Ngành kinh doanh hải sản tươi sống được xem là một nguyên nhân của sự suy thoái do việc sử dụng xyanua và các hóa chất khác khi đánh bắt các loài cá nhỏ. Cuối cùng, nhiệt độ nước cao hơn bình thường do các hiện tượng khí hậu như El Nino và sự ấm lên toàn cầu có thể làm san hô bạc màu.

Theo tạp chí The Nature Conservancy, nếu sự phá hủy tăng lên theo tốc độ hiện hành, 70% các rạn san hô trên thế giới sẽ biến mất trong vòng 50 năm tới. Sự mất mát này sẽ là một thảm họa kinh tế đối với những đất nước ở vùng nhiệt đới. Hughes (2003), viết rằng “với dân số thế giới ngày càng tăng và các hệ thống vận tải và lưu trữ ngày càng phát triển, ảnh hưởng của con người đối với các rạn san hô sẽ có quy mô tăng theo cấp lũy thừa”.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau đối với các hệ thống rạn san hô. Có nhiều nhân tố, trong đó có vai trò của các đại dương như chìm lún điôxít cacbon, các thay đổi trong khí quyển trái đất, tia cực tím, sự axít hóa đại dương, virus sinh học, ảnh hưởng của bão cát, các chất ô nhiễm khác nhau, ảnh hưởng của sự bùng nổ tảo…

gs.ngnd nguyễn lân dũng

Cách Viết Báo Cáo Khoa Học Cho Các Tập San Khoa Học Quốc Tế

Cách viết báo cáo khoa học cho các tập san khoa học quốc tế

Mới đây trên Tạp chí Hoạt động Khoa học, tác giả Phạm Duy Hiển nêu vấn đề về sự có mặt rất khiêm tốn của các nghiên cứu khoa học Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế. Đây là một ưu tư rất chính đáng. Trong ngành y sinh học, trong vòng 40 năm qua, số lượng bài báo từ các nhà khoa học ở Việt Nam chỉ trên dưới con số 300. Con số này cực kì khiêm tốn nếu so với 5.000 từ Thái Lan hay trên 20.000 từ Singapore. Trong thực tế, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị và hấp dẫn, nhưng ít khi nào có mặt trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là tại sao có tình trạng này, và làm sao chúng ta có thể cải thiện tình thế.

Qua kinh nghiệm cá nhân và tiếp xúc với đồng nghiệp trong nước, người viết bài này tin rằng một phần của vấn đề là các nhà khoa học nước ta thiếu kĩ năng phân tích dữ kiện và thiếu kĩ năng thông tin (communication skill). Về phân tích số liệu, sẽ bàn trong một dịp khác, ở đây tác giả bài viết chỉ bàn đến vấn đề thông tin, mà cụ thể là soạn một bài báo khoa học.

Đại đa số các tập san khoa học quốc tế sử dụng tiếng Anh để truyền đạt thông tin. Một phần không nhỏ các nhà khoa học nước ta chưa quen với tiếng Anh, và đó là một trở ngại lớn. Nhưng ngay cả trong số các nhà khoa học thạo tiếng Anh, thì họ lại thiếu kĩ năng viết báo khoa học. Bài viết này muốn góp một phần nhỏ trong nỗ lực cải thiện tình thế đó, bằng cách chia sẻ một số kinh nghiệm viết báo cáo khoa học với các đồng nghiệp và nhà nghiên cứu trẻ. Bài viết này là một tóm lược của một tài liệu bằng tiếng Anh dài hơn dùng để giảng dạy cho các nghiên cứu sinh ở Mỹ và Úc.

****

Tại sao phải công bố báo cáo khoa học?

Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là một bản báo cáo về một công trình nghiên cứu, mà còn là một đóng góp cho kho tàng tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào thông tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các nhà khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Đối với cá nhân nhà khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế là một “currency” (đơn vị tiền tệ). Đó là những viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới khoa bảng. Tại các đại học Tây phương, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư. Vì thế công bố báo cáo khoa học, đối với giới khoa bảng Tây phương, là một việc làm ưu tiên hàng đầu của họ. Chính vì thế mà các đại học Tây phương có cái văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay là tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa bảng không có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế, ban giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời câu hỏi “tại sao”. Nếu có lí do chính đáng thì còn giữ chức vụ; nếu không có lí do chính đáng thì có nguy cơ mất chức như bỡn.

Nói tóm lại, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế (không chỉ ở trong nước) là một việc làm chính yếu, một nghĩa vụ, và một điều kiện để tồn tại của một nhà khoa học. Nhưng từ lúc tiến hành nghiên cứu, thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một quá trình gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm sao đảm bảo báo cáo được đăng trên một tập san khoa học có uy tín trên thế giới. Vì thế, các nhà khoa học cần phải đặc biết chú ý đến việc soạn thảo một báo cáo khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bài viết này mách bảo một cách thân mật những “mẹo” và kĩ năng để đạt tiêu chuẩn đó.

 

Báo cáo khoa học: khổ hạnh  

Mỗi bài báo khoa học là một công trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa hạnh phúc. Đau khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một bài báo, và hạnh phúc khi nhìn thấy bài báo được công bố trên một tập san có nhiều đồng nghiệp đọc và chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả phải phấn đấu làm sao để giữ sự cân bằng giữa tính trong sáng nhưng nội dung phải đầy đủ. Bài báo phải làm sao hấp dẫn người đọc và để người đọc “nhập cuộc”. Bài báo phải được viết bằng một văn phong cực kì súc tích, nhưng phải đầy đủ. Đó là những yêu cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.

Nếu không tiếp cận vấn đề một cách có việc hệ thống, tất cả những nỗ lực cho một bài báo khoa học có thể trở nên vô dụng, thậm chí đem lại ảnh hưởng xấu vì một công trình nghiên cứu sẽ không có cơ hội xuất hiện trên các tập san chuyên môn. Mặc dù ở các nước phương Tây, người ta đã có nhiều bài viết chỉ dẫn – thậm chí cả sách dạy – cách viết một bài báo khoa học, nhưng ở nước ta, hình như vẫn chưa có một tài liệu chỉ dẫn như thế. Bài viết này, vì thế, được soạn ra nhằm mục đích duy nhất là cung cấp cho bạn đọc những chỉ dẫn đơn giản và thực tế để sao cho bạn đọc có thể tự mình viết một bài báo khoa học đạt yêu cầu của các tập san khoa học quốc tế.

 

Vạn sự khởi đầu nan …

Viết một bài báo tốt là một việc làm không đơn giản chút nào, nếu không muốn nói là phức tạp.  Nó đòi hỏi người viết phải sáng tạo và suy tưởng… trong lặng lẽ. Con đường dẫn đến một sản phẩm hoàn hảo không bao giờ là một con đường thẳng, mà là một con đường với nhiều ngõ ngách, nhiều đường cùng, và nhiều chông gai. Nói một cách ngắn gọn, viết cần phải có thời gian. Thành ra, cách tốt nhất là phải khởi công viết càng sớm càng tốt, đừng bao giờ để cho đến giai đoạn cuối của nghiên cứu mới viết.

Tác giả có thể viết ngay những phần cần viết ra của bài báo trong khi công trình nghiên cứu vẫn còn tiến hành. Phát họa ra phần dẫn nhập

(introduction) ngay từ khi công trình nghiên cứu đang được thai nghén. Viết phần phương pháp (methods) ngay trong khi công trình nghiên cứu còn dở dang. Làm đến đâu, viết ngay đến đó. Sau cùng là một phát họa những biểu đồ, bản thống kê cần phải có trong bài báo.

Viết ra những ý tưởng và phương pháp sớm giúp cho nhà nghiên cứu rất nhiều trong những lần sửa chữa sau này. Chẳng hạn như làm sáng tỏ động cơ và lí do nghiên cứu trong phần dẫn nhập giúp cho nhà nghiên cứu nhận ra bối cảnh mà công trình nghiên cứu có thể đóng vai trò. Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho nhà nghiên cứu khỏi phải tốn công xây dựng lại những bước đi, những thủ tục mà công trình nghiên cứu đã hoàn tất. Việc phát thảo ra những biểu đồ và bản số liệu giúp cho nhà nghiên cứu tập trung vào nỗ lực phân tích dữ kiện. Và quan trọng hơn hết, khi ngồi xuống viết, tự việc làm đó, tạo cơ hội cho

(

hay nói đúng hơn là bắt buộc

)

nhà nghiên cứu phải suy nghĩ nghiêm túc về việc làm của mình.

Một điều quan trọng khác là tác giả cần phải bỏ ra một thời gian tịnh tâm suy nghĩ về cái thông điệp của công trình nghiên cứu cho cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả nên chịu khó viết ra những điểm chính nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: tại sao mình làm những gì mình đã làm; thực tế mình đã làm gì; mình phát hiện điều gì mới lạ; và những điều này có ý nghĩa gì?

 

Tập trung vào những thông tin chính

Mặc dù thành phần độc giả của các tập san khoa học có thể rất đa dạng, một đặc tính mà giới chuyên môn đều có chung là: bận rộn. Giới khoa học gia, bác sĩ, kĩ sư, nhà quản lí, lãnh đạo… có lẽ chỉ nhìn qua bài báo khoa học một cách nhanh chóng, chứ ít khi nào có thì giờ nghiền ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần lớn tác giả nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể không nghĩ đến khi đặt bút xuống soạn bài báo khoa học. Do đó, tác giả nên tự đặt mình vào vai trò của người đọc và suy nghĩ như người đọc bằng cách chú ý đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu: tựa đề bài báo, bản tóm tắt (abstract), những bản số liệu, và biểu đồ.

 

Tựa đề và tóm tắt

 

Bảng số liệu và biểu đồ

Yếu tố thị giác rất quan trọng. Nếu người đọc quyết định đọc bài báo (sau khi đã xem qua tựa đề và bản tóm tắt), họ sẽ tiếp tục xem đến các bảng thống kê và biểu đồ. Các bảng thống kê số liệu thường được dùng để trình bày những số liệu mang tính trang trọng, tính chính xác cao, tính chính thức. Các bảng thống kê có thể dùng để tổng hợp và so sánh số liệu của các công trình nghiên cứu trong quá khứ, để giải thích mối liên hệ giữa các nhân tố trong công trình nghiên cứu, hay trình bày những câu hỏi đã được sử dụng trong công trình nghiên cứu.

Người Trung Hoa từng nói “Một biểu đồ có giá trị bằng một vạn chữ viết”

.

Mục đích của biểu đồ là cung cấp một ấn tượng về phát hiện chính của công trình nghiên cứu. Biểu đồ có khi được dùng làm tài liệu giảng dạy. Vì thế biểu đồ là một phương tiện hữu hiệu nhất để nhấn mạnh thông điệp của bài báo. Biểu đồ thường được sử dụng để thể hiện xu hướng và kết quả cho từng nhóm, nhưng cũng có thể dùng để trình bày dữ kiện một cách gọn gàng. Các biểu đồ dễ hiểu, nội dung phong phú là những phương tiện vô giá. Do đó, nhà nghiên cứu cần phải suy nghĩ một cách sáng tạo cách thể hiện số liệu quan trọng bằng biểu đồ.

 

Phát thảo một cách làm có hệ thống

Tiếp cận và phác họa cấu trúc của một bài báo trước khi đặt bút viết tạo điều kiện dễ dàng cho tác giả sau này. Bước đầu tiên đòi hỏi tác giả phải biết tập san mà mình muốn gửi bài báo, bởi vì mỗi tập san có những yêu cầu khác nhau về hình thức cũng như nội dung. Một khi đã xác định được tập san đối tượng, tác giả cần phải xem qua phong cách và hình thức bài báo mà tập san đó qui định. Đặc biệt là phải xem qua các bài báo đã được công bố trên tập san đó, như số lượng chữ là bao nhiêu, biểu đồ phải trình bảy như thế nào, bảng số liệu phải viết ra sao, trình bày phần tài liệu tham khảo theo cách gì, v.v… Phần lớn các tập san y khoa và sinh học đều tuân thủ theo các qui định được công bố trong tài liệu Uniform Requirements for Manuscripts Submitted to Biomedical Journals.

Có nhiều “chiến lược” để thu hút người đọc theo dõi bài báo của mình. Cách tốt nhất và hiệu quả nhất có lẽ là ngắn gọn. Không nên nhầm lẫn giữa sự phức tạp với tính tinh vi. Câu văn cần phải ngắn gọn, đơn giản, nhưng chính xác và trực tiếp đi thẳng vào vấn đề. Cũng cần phải nhận thức rằng có được một bài báo khúc chiết như thế không phải là điều dễ dàng chút nào – nó đòi hỏi nhiều thời gian và suy nghĩ.

 

Dẫn nhập

“Nhiệm vụ” thiết yếu nhất trong phần dẫn nhập là phải làm sao làm cho người đọc tiếp nhận bài báo và quan tâm đến kết quả của công trình nghiên cứu. Hơn nữa, phần dẫn nhập còn giúp cho người bình duyệt bài báo hay tổng biên tập tập san thẩm định tầm quan trọng của bài báo. Trong phần dẫn nhập, tác giả phải nói rõ tại sao công trình nghiên cứu ra đời và tại sao người đọc phải quan tâm đến công trình đó. Sơ đồ 1 sau đây phác họa cái khung cho phần dẫn nhập được viết với 3 đoạn văn.

Đọan văn thứ nhất mô tả một vấn đề chung hay yếu tố chung làm động cơ cho công trình nghiên cứu. Đặc biệt là câu văn đầu tiên phải “mạnh mẽ” và làm sao thu hút chú ý của người đọc. Đoạn văn thứ hai tập trung vào vấn đề cụ thể mà công trình nghiên cứu phải giải quyết. Trong đoạn văn này, tác giả có thể nêu ra những vấn đề mà người đọc có thể chưa từng biết qua. Đoạn văn thứ hai cũng cần nêu lên cái khoảng trống tri thức mà cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Đoạn văn thứ ba mô tả các mục tiêu của công trình nghiên cứu. Phần dẫn nhập phải được làm sao mà đọc đến đoạn thứ ba, người đọc cảm thấy háo hức và thiết tha đọc các phần kế tiếp của bài báo.

 

Sơ đồ 1: Khung bài cho phần dẫn nhập (3 đoạn văn)

Đoạn văn

Câu hỏi

Ví dụ

Ví dụ 1

Ví dụ 2

Ví dụ 3

1

Vấn đề chung là gì, tình hình hiện nay ra sao?

Loãng xương là một bệnh nghiêm trọng trong người có tuổi vì nó là nguyên nhân dẫn đến gãy xương.

Có nhiều bằng chứng cho thấy carotid endarterectomy có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim.

Tiểu đường thận (diabetic nephropathy) là nguyên nhân số một của bệnh thận vào giai đoạn cuối.

2

Vấn đề cụ thể là gì, và trong kho tàng tri thức còn khoảng trống nào?

Mật độ xương (BMD) là một yếu tố quan trọng trong việc chẩn đoán loãng xương trong người Âu Mĩ.  Tuy nhiên trong người Việt sự chính xác của BMD trong việc tiên đoán gãy xương vẫn chưa được nghiên cứu.

Mặc dù microalbumin được đề nghị dùng để truy tìm bệnh tiểu đường thận, nhưng phần lớn bác sĩ vẫn không tuân theo qui định chung này.

3

Thế thì công trình nghiên cứu này sẽ đóng góp gì ?

Nghiên cứu khả năng ứng dụng BMD trong người Việt hay một dân số khác sẽ giúp cho việc phát triển một tiêu chuẩn chẩn đoán mới.

Để giúp cho bác sĩ thẩm định lợi ích của carotid endarterectomy, chúng tôi tính toán số ca phẫu thuật cần thiết để ngăn ngừa một ca bệnh tim trong những điều kiện khác nhau.

Nhằm mục đích phát triển một phương pháp mới và đơn giản hơn cho việc chẩn đoán tiểu đường thận, chúng tôi ứng dụng một mô hình quyết định (decision making model) và phân tích hệ quả của thuật chữa trị ACE

 

Phương pháp

Có thể bài báo đề ra một phương pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng) xuất hiện nhiều lần trong bài báo. Tác giả nên suy nghĩ kĩ về những tên gọi này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ hiểu. Nên gọi phương pháp điều trị là gì? Phải sử dụng từ gì để mô tả chỉ tiêu của nghiên cứu? Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy trước khi viết cần phải liệt kê ra danh sách những từ hay sử dụng trong bài báo. Không có gì lẫn lộn và khó chịu người đọc hơn là dùng nhiều từ khác nhau để gọi một hiện tượng!

Một cấu trúc cứng nhắc sẽ làm cho phần phương pháp trở thành máy móc. Nhưng đó lại là cấu trúc mà các tập san y khoa đòi hỏi cho các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trial). Trong cấu trúc này, tác giả phải viết dưới các tiêu đề như khái quát, nơi làm nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng, chỉ tiêu chính của nghiên cứu, chỉ tiêu phụ, cách đo lường, phương pháp phân tích dữ kiện…

Trong các nghiên cứu khác, tác giả có thể tự mình sáng tạo ra những tiêu đề thích hợp với công trình nghiên cứu. Ngay cả nếu tác giả sau này phải xóa bỏ các tiêu đề này thì sự bố cục của chúng giúp ích cho tác giả rất nhiều. Có thể dùngmột biểu đồ như là một cách mô tả qui trình nghiên cứu (chẳng hạn như thiết kế, tuyển chọn bệnh nhân, và phân tích dữ kiện). Nếu cần, tác giả có thể thêm phần phụ lục để cung cấp chi tiết về phương pháp phân tích, mã (codes) dùng trong máy tính, hay phương pháp thu thập dữ kiện cùng phương pháp đo lường (đây là những phương pháp có thể giúp cho người duyệt bài hay người đọc có thể lặp lại thử nghiệm).

 

Kết quả

Phần kết quả phải được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tác giả phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát hiện gì?”

.

Cần phải phân biệt rõ đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số liệu, và những dữ kiện này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản. Những số liệu này phải trình bày sao cho lần lượt trả lời các mục đích mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.

     

Câu hỏi cần phải trả lời

Nội dung

Phát hiện chính là gì?

Phát biểu những phát hiện chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước đây.

Phát hiện đó có khả năng sai lầm không ?

Xem xét những yếu tố sau đây: thiếu khách quan trong đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối tượng ít? Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy đủ?  Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ? V.v…

Ý nghĩa của phát hiện là gì?

Đặt kết quả của nghiên cứu vào bối cảnh lớn hơn, và so sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận về cơ chế (nhưng không nên quá lời hay quá xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm trong khuôn khổ của dữ kiện thật).

Kết luận có phù hợp với dữ kiện hay không?

Kết luận phải rõ ràng, nhưng không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu kết quả cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi.

 

Hỗ trợ từ đồng nghiệp

Những bài báo khoa học có giá trị thường là những bài báo đã được xem xét và duyệt đi duyệt lại nhiều lần, kể cả những lần phản hồi (response) hay phản biện lại những phê bình của những người bình duyệt. Điều này đòi hỏi bài báo, trước khi gửi đi cho một tập san, phải được các đồng nghiệp nội bộ đọc và phê bình. Tác giả không nên ngần ngại tiếp nhận những phê bình gay gắt từ đồng nghiệp. Để làm việc này, tác giả cần phải có một danh sách những đồng nghiệp có thể duyệt bài. Những đồng nghiệp này không hẳn phải là những tên tuổi lớn như giáo sư, mà có thể là nghiên cứu sinh. Thật ra, các giáo sư ít khi nào có thì giờ đọc kĩ; chính các nghiên cứu sinh hay đồng nghiệp cấp thấp thường là những người có khả năng và có thì giờ chăm chú, có động cơ để cho ý kiến một cách nghiêm chỉnh. Có hai nhóm đồng nghiệp có thể làm người duyệt bài nội bộ:

* Những người bình duyệt chung, nhiệm vụ chính của họ là xem xét cách viết của tác giả có dễ hiểu hay không. Bất cứ ai, kể cả những người không cùng chuyên môn, cũng có thể là người duyệt bài trong nhóm này, nhưng người duyệt bài lí tưởng nhất là người có nỗ lực suy nghĩ cẩn thận.

* Những người bình duyệt có cùng chuyên môn, nhiệm vụ của họ là giúp tác giả chuẩn bị để đối phó với những người bình duyệt của tập san và ban biên tập. Trong nhóm này, tác giả cần một hay hai thành viên trong cùng chuyên môn và có khả năng “soi mói” chi tiết hay nêu ra những sai sót của bài báo hay công trình nghiên cứu (chẳng hạn như nghiên cứu có đúng phương pháp không, diễn dịch có logic không, kết luận có đi ra ngoài dữ kiện không …). Trong nhóm này, người duyệt lí tưởng là một người “khó tính ” sẵn sàng nói thẳng với tác giả những gì họ nghĩ, thậm chí không mấy có cảm tình với ý tưởng của tác giả.

 

Cải tiến

Muốn trở thành một tác giả khoa học tốt cần phải có thời gian.  Một bài báo khoa học thường nhắm vào một vấn đề hẹp. Nhưng tác giả phải có một cái nhìn rộng và lớn hơn khi đọc bài báo của mình. Cần phải đặt bài báo và kết quả nghiên cứu vào một bối cảnh lớn hơn để thấy thành quả ra sao hay những gì cần phải làm tiếp trong tương lai.

Sơ đồ 3

sau đây phác thảo vài cách tiếp cận để tác giả có thể tự mình cải tiến. Nhiều tác giả thiếu kiên nhẫn vì họ chỉ muốn gửi bài báo đi càng sớm càng tốt, nhưng đó không phải là một hành động có hiệu quả cao. Do đó, điều thứ nhất là không nên hấp tấp trong khi viết. Sau khi viết xong bản thảo, có thể để đó vài ngày hay vài tuần. Sau đó, đọc lại và xem xét những chi tiết nào cần thêm hay cần bỏ đi. Đọc đi đọc lại với một cái nhìn mới để xem có gì cần phải phân tích thêm hay không, hay cách diễn dịch số liệu có hợp lí hay không. Kiểm tra lại cách viết và các đoạn văn có ăn khớp với nhau hay không, ý tưởng có trôi chảy hay không …

Sau đó là xem xét đến những chi tiết. Hai điểm quan trọng cần phải để ý ở đây. Thứ nhất, kiểm tra tính nhất quán: cả số liệu hay dữ kiện và các chú thích phải nhất quán với văn bản, bảng thống kê, và biểu đồ. Thứ hai là loại bỏ những “nhiễu” – tức là những điểm lặp đi lặp lại hay những điểm làm cho người đọc sao lãng cái thông điệp chính trong bài báo. Có khi cần phải kiểm tra từng chữ một xem nó có thích hợp với mục đích của bài báo hay không. Tránh dùng những từ ngữ tối nghĩa, những biệt ngữ khó hiểu, hay những viết tắt mà người ngoài chuyên môn chưa quen biết.

Một bài báo thường phải qua bình duyệt từ ban biên tập của tập san. Nếu tập san cho tác giả cơ hội trả lời những phê bình này, đó là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên, việc trả lời những phê bình của ban biên tập không phải lúc nào cũng là việc làm thoải mái, dù sau khi phản biện thì bài báo sẽ tốt hơn. Trong khi trả lời phê bình, điều tối quan trọng là không nên có thái độ quá chống chế, hay quá công kích người phê bình. Tác giả có nhiệm vụ phải trả lời từng câu hỏi một, từng điểm phê bình một, và trả lời một cách lịch sự. Nếu tác giả không đồng ý với người bình duyệt, tác giả có quyền nói thẳng. Thông thường, sau khi trả lời bình duyệt, bài báo phải có sửa đổi, và tác giả phải thông báo cho ban biên tập biết những chỗ nào đã thay đổi và tại sao thay đổi.

Khoa học là một trường hoạt động khá bình đẳng. Công trình của tác giả có người khác bình duyệt, và tác giả cũng có cơ hội bình duyệt công trình của người khác. Thành ra, để giúp đỡ đồng nghiệp và để tự mình cải tiến, tác giả nên nhận lời bình duyệt công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp. Nếu tác giả cảm thấy học hỏi được một vài điều từ việc trả lời phê bình của người khác, tác giả cũng có thể học hỏi nhiều điều từ việc đọc và phê bình công trình của đồng nghiệp. Qua đọc và xem xét cẩn thận, tác giả sẽ cảm thấy mình trưởng thành và thoải mái với các nguyên lí và sự sắp xếp của các lí giải trong một bài báo khoa học. Làm người bình duyệt là một hình thức tự mình trao dồi kĩ năng nghiên cứu: nhận dạng nhầm lẫn của người khác cũng có nghĩa là nâng cao kĩ năng nhận dạng nhầm lẫn của chính mình.

Ai trong chúng ta cũng muốn là tác giả của những bài báo khoa học tốt, những bài báo mà chúng ta có thể tự hào, và hi vọng sẽ được lưu truyền rất lâu trong tương lai. Tuy nhiên, dù chúng ta có cẩn thận cách mấy, và bất kể bao nhiêu lần chúng ta đọc đi đọc lại, rà soát, xác suất bài báo có ít nhất là một sai lầm hay lỗi nhỏ đều rất cao. Một cá nhân rất khó mà phát hiện tất cả các lỗi lầm của chính mình. Điều đó có nghĩa là tác giả cần đồng nghiệp, những người đọc và phê bình một cách nghiêm túc và thành thật. Tác giả cần phải bỏ tính tự ái, và không nên sợ hãi trước những phê phán. Theo kinh nghiệm của người viết bài này, những phê phán của đồng nghiệp, dù lớn hay nhỏ, dù gay gắt hay thân thiện, lúc nào cũng giúp cho bài báo trở nên hoàn hảo hơn.

Ở phần đầu tôi đã nêu ra vài lí do tại sao cần phải công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế, ở đây tôi muốn nói thêm một lí do quan trọng hơn nữa. Đối với quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước ta. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án, nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn một câu nói của một người thông thái, Khổng Tử: “Nếu dùng ngôn ngữ không đúng, thì những gì được phát biểu sẽ bị hiểu sai; nếu những gì phát biểu bị hiểu sai, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực hiện được, đạo đức và nghệ thuật sẽ trở nên tồi tệ hơn”

.

Và tôi cũng có thể thêm rằng, nước nhà sẽ thiệt thòi hơn.

 

                                                

Sơ đồ 3:  Cải tiến

Cách tiếp cận căn bản

Chú thích

Cải tiến bài báo: Không hấp tấp; đọc và sửa lại liên tục.

   

·   Cần phải để dành thời gian, suy nghĩ lại, lĩnh hội vấn đề, đọc lại một lần nữa với một cách nhìn hoàn toàn mới

·   Xem xét lại cấu trúc bài báo; xem có phần nào thiếu nhất quán hay không; có mâu thuẫn trong lí giải hay không; xóa bỏ những phần lặp đi lặp lại.

Trả lời những phê bình của người duyệt bài

·   Trả lời từng điểm một, tuyệt đối không chối bỏ bất cứ điểm nào;

·   Phải lịch sự trong khi trả lời, không dùng những từ mang tính thách thức và tấn công cá nhân; nếu cần bất đồng ý kiến với người duyệt bài, cứ nói thẳng như thế;

·   Thông báo cho biên tạp biết những gì đã thay đổi trong bài báo và giải thích tại sao phải thay đổi.

 

Cải tiến kĩ năng phê bình công trình của người khác

·   Sẵn sàng phục vụ làm người bình duyệt bài cho các tập san khoa học;

·   Công bằng và vô tư trong việc phê bình;

·   Không duyệt bài nếu cảm thấy mình có mâu thuẫn quyền lợi cá nhân.

   

 Những điểm chính

+ Nên bắt đầu viết sớm trước khi hoàn tất công trình nghiên cứu.

+ Tập trung vào những gì mà người đọc cần đọc: tựa đề, tóm tắt, biểu đồ, bảng số liệu.

+ Cải tiến bài báo bằng cách yêu cầu giúp đỡ từ đồng nghiệp.

   

Trao đổi mạn đàm GS.TS. Nguyễn Văn Tuấn

Viện nghiên cứu y khoa Garvan

, Australia

Hướng Dẫn Cách Làm Tập San 20/11 Tri Ân Thầy Cô Đẹp Và Ý Nghĩa

Tập san 20/11 là một trong những hoạt động không thể thiếu vào lễ kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam.

Ngày nhà giáo Việt Nam 20.11 là sự kiện quan trọng được tổ chức hàng năm tại các trường học. Bên cạnh những hoạt động chào mừng như các tiết mục văn nghệ, các cuộc thi cắm hoa thì cuộc thi viết tập san 20/11 cũng được phát động.

I. Cách làm tập san 20-11 đơn giản

1. Lên ý tưởng cho tập san về thầy cô 20-11

Tập san là ấn phẩm được thu thập và tập hợp lại. Các bài viết sẽ được thu thập, tuyển chọn sàng lọc sau đó cho in ấn phát hành.

Làm tập san ngày 20 tháng 11 sao cho đẹp bước đầu tiên bạn cần lên ý tưởng cả về nội dung lẫn hình thức. Để hoàn thành một tập san cần có sự góp mặt của cả tập thể lớp, bởi vậy hãy lên kế hoạch cụ thể, giao việc cho từng thành viên và tận dụng điểm mạnh của từng người.

2. Xác định độ dày của tập san

Để tập san báo tường 20 11 được chú ý và gây ấn tượng ngay lần đầu chấm điểm, tập san cần được đảm bảo về độ dày, số lượng tờ phù hợp. Nếu tập san quá mỏng người chấm ngay lập tức sẽ cảm thấy thật sơ sài, không đặt tâm huyết để hoàn thành.

Dù vậy, bạn cũng không nên quá tập trung làm vào độ dày khiến nội dung tập san lan man, lặp nội dung. Đây sẽ là điểm trừ lớn nhất khiến tập san bị loại.

3. Trang trí bìa tập san 20/11 đẹp

Ngay khi cầm tập san trên tay, bìa tập san 20 11 đẹp sẽ giành trọn ánh nhìn của người chấm. Trang bìa tập san đẹp sẽ tác động đến việc người xem có muốn lật sang trang kế tiếp hay không. Bởi vậy, bạn cần có cách trang trí bìa tập san 20-11 đẹp nhất có thể.

4. Lời ngỏ tập san 20 11 ngắn, đủ ý

Thông thường lời giới thiệu tập san 20 11 nên dài khoảng 1 trang giấy. Bạn nên lựa chọn những bạn học văn giỏi của lớp phụ trách phần này.

6. Trang trí tập san đẹp mắt, ấn tượng

Trang trí tập san sao cho đẹp, hấp dẫn là điều không thể thiếu nếu muốn tập san đạt giải cao. Mỗi trang giấy, mỗi mục sẽ có cách trang trí khác nhau tạo ấn tượng và không khiến người đọc nhàm chán.

Vẽ tập san 20 tháng 11 cần đến bàn tay khéo léo của các bạn trong lớp, hãy tận dụng ý tưởng độc đáo và cùng nhau tô điểm cho tập san thêm đẹp.

7. Lời kết tập san 20 11 chân thành

Sau khi đã hoàn thành nội dung, trang trí thì lời kết là mục không thể thiếu của tập san. Những lời cảm ơn chân thành, sự biết ơn, kính trọng thầy cô được các cô cậu học trò trình bày đầy cảm động ở trang giấy cuối này. Tập san của lớp chắc chắn sẽ đạt giải cao nếu hay và lấy được sự cảm động của người chấm.

II. Tham khảo các tập san 20 11 đoạt giải cao