Top 7 # Xem Nhiều Nhất Cách Soạn Văn Lớp 9 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Techcombanktower.com

Bài Soạn Lớp 9: Đoàn Thuyền Đánh Cá

Tác giả:

Huy Cận (1919-2005) quê huyện Vụ Quang,tỉnh Hà Tĩnh.

Trước cách mạng:nổi tiếng trong phong trào Thơ mới .

Sau cách mạng:Thơ ông có sự chuyển mình, ấm áp hơi thở cuộc sống và dào dạt niềm vui. Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.

Phong cách thơ: Bút pháp hiện thực đậm chất lãng mạn.Cảm hứng chính hướng về thiên nhiên, vũ trụ.

Tác phẩm:

Viết năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Thể thơ: thất ngôn trường thiên

Phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm

Bố cục: 3 phần

Hai khổ đầu: cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của người đi biển

Bốn khổ thơ tiếp theo: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

Khổ thơ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về.

Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Dựa theo trình tự ấy, em hãy tìm bố cục của bài thơ. Hãy nêu thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ.

Trả lời:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được triển khai theo bố cục ba phần:

Không gian và thời gian trong bài thơ được miêu tả:

Không gian: biển cả bao la và khoáng đạt, người lao động hòa mình vào với thiên nhiên.

Thời gian: sự thay đổi của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh của ngày hôm sau.

Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian nào? Bằng những biện pháp nghệ thuật gì, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ?

Trả lời:

Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả giữa thiên nhiên bao la của biền và trời như đã gắn liền, hải hòa với nhịp sống của thiên nhiên đất trời: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng:, “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, ” Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”…

Thông qua biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tác giả đã miêu tả con thuyền lướt giữa gió trăng lồng lộng. Bằng cảm hứng lãng mạn, bay bổng, với những liên tưởng sáng tạo làm nổi bật lên hình ảnh con người lao động mới hăng say, vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy sống động.

Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động. Em hãy chọn phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1, 3, 4 và 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật?

Trả lời:

Mở đầu bài thơ tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ với những ánh hoàng hôn trên biển đẹp kì vĩ, rực rỡ. Biển cả lúc này như mọt ngôi nhà kì vĩ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen.Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian. Và khi ấy:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Công việc đánh cá của bà con ngư dân lại bắt đầu, lại một chuyến tàu ra khơi đánh bắt. Họ ra khơi với một niềm vui, sự phấn chấn, tinh thần hăng sau của những con người đi lao động, chinh phục thiên nhiên. Qua khổ thơ này, cho người đọc thấy được sự hòa hợp giữa sức mạnh con người và thiên nhiên bao la, vũ trụ.

Bước sang khổ thơ thứ ba, hình ảnh con thuyền lướt đi giữ trời cao biển lặng có cái lâng lâng sảng khoái lạ thường:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.

Hai câu thơ đẹp như một bức tranh lồng lộng mây trời, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kì diệu, giàu chất lãng mạn: gió là người lái, trăng là cánh buồm. Cách tả như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển gió, trăng….

Bút pháp nghệ thuật trong bài thơ nổi bật là bút pháp lãng mạn, cảm xúc dạt dào của nhà thơ cùng với những hình ảnh kì vĩ, đã làm nổi bật vẻ đẹp của con người lao động giữa thiên nhiên bao la.

Bài thơ có nhiều từ hát, cả bài cũng như một khúc ca. Đây là khúc ca gì và tác giả làm thay lời ai? Em có nhận xét gì về âm hưởng, giọng điệu của bài thơ? Các yếu tố: thể thơ, vần, nhịp đã góp phần tạo nên âm hưởng của bài thơ như thế nào?

Trả lời:

Trong bài thơ có tất cả 4 từ “hát”, cả bài như một khúc ca, ngợi ca lao động, với tinh thần làm chủ, với niềm vui phơi phới mà nhà thơ viết thay cho những người lao động. Câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” ở khổ đầu bài thơ gần như được lặp lại ở khổ cuối bài thơ “Câu hút căng buồm với gió khơi” tạo nên một sự tương ứng đẹp, thể hiện một sự trọn vẹn của cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá và sự vận hành của thời gian, không gian. Đây là khúc ca về lao động hào hùng, tràn đây sức sống mà tác giả đã thay lời cho những người lao động cất lên tiếng hát.

Giọng điệu bài thơ sôi nổi, khỏe khoắn, tràn đầy không khí hứng khởi. Lời thơ dõng dạc giọng điệu như khúc hát mê say hào hứng, cách gieo vần linh hoạt tạo nên âm hưởng hào hùng cho bài thơ.

Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em có nhận xét gì về cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên đất nước và con người lao động?

Trả lời:

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ta thấy được, nhà thơ Huy Cận có cái nhìn tươi mới và cảm xúc hào hứng, tràn đầy niềm vui về cuộc sống.

Thiên nhiên tráng lệ, giàu có là nguồn tài nguyên vô tận luôn phục vụ con người, tham gia tích cực vào cuộc sống. Con người hăng hái say mê lao động làm chủ cuộc sống, xây dựng cuộc sống mới. Chính nhà thơ đã viết “Không khí lúc này thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả một vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến bình minh”.

Đây là một cái nhìn tin tưởng và phấn khởi của nhà thơ trước cuộc đời mới. Cái nhìn ấy, cảm xúc ấy là kết quả của quá trình đi thực tế dài ngày tại vùng mở Quảng Ninh. Bắt đầu từ đây hồn thơ Huy Cận này nở trở lại trong niềm vui say cuộc sống mới.

Trả lời:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia – Cẩn Phả -Quảng Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyềnđánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.

Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đãcài then đêm sập cửa”.

Ở câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm,ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này.Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóngbiển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.

Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh(cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.

Như vậy, bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.

Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn của tác phẩm, khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua củng mặt trời

Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang “chạy đua cùng mặt trời”. Không còn là sự nốì tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng:

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biến” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đên màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước.

Soạn Văn 9 Vnen Bài 11: Đoàn Thuyền Đánh Cá

B. Hoạt động hình thành kiến thức.

1. Đọc văn bản: Đoàn thuyền đánh cá

a. Mạch thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền từ lúc bắt đầu (hoàng hôn) đến khi đánh bắt cá (đêm xuống) và trở về (bình minh). Em hãy dựa trên trình tự ấy tìm bố cục bài thơ.

Bài thơ có 7 khổ, được kết cấu theo sự vận động của thời gian và hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá:

– Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.

– Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.

– Khổi cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.

b. Chỉ ra và nêu giá trị biểu đạt của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ đầu. Hình ảnh con người qua những chi tiết nào trong khổ thơ này?

– Biện pháp so sánh, nhân hóa:” Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa” cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cửa. Với sự quan sát tinh tế nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm.

– Biện pháp ẩn dụ:” Câu hát căng buồm” để nói đến con người ra khơi. Hình ảnh người dân lao động làm chủ thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển cả và cả sự hi vọng về một chuyến ra khơi nhiều hải sản cất cao tiếng hát giữ biển khơi vô tận trở thành trung tâm khiến câu thơ mang nhịp điệu hào hứng, hứng khởi về một chuyến ra khơi bội thu.

c. Tầm vóc của đoàn thuyền đánh cá được miêu tả như thế nào? (lái, buồm, không gian xuất hiện) điều đó gợi vẻ đẹp gì qua hình ảnh người lao động?

d. Những chi tiết hình ảnh, biện pháp nghệ thuật nào miêu tả sự giàu đẹp của biển. Qua đó, tác giả thể hiện tình cảm gì với biển quê hương.

e. Em có nhẫn xét gì về âm điệu nhịp điệu của bài thơ.

a. Đọc các đoạn thơ sau và thực hiện yêu cầu ở dưới:

(1)

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối -Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

(2)

Xin đừng gọi bàng ngôn từ hoa mĩ. Đi suốt đời kí ước vẫn mang theo

(3)

Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên

– Tìm những từ ngữ có khả năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn:

– Chỉ ra cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ

– Trình bày những hiểu biết của em về đoạn thơ tám chữ

Cách gieo vần:

– Đoạn thơ trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp: tan – ngàn, mới – gội, bừng – rừng, gắt – mật.

– Đoạn thơ trong bài Tổ quốc-Nguyễn Huy Hoàng vần chân, gián cách: mĩ-lẻ, nguyên tên, bỏng-hạn, hè-đê, ngát- tuổi, diều-theo

– Đoạn thơ trong bài Mùa thu mới của Tố Hữu gieo vần chân, gián cách: ngát – hát, non – son, dứng – dựng, tiên – nhiên.

Cách ngắt nhịp: Cách ngắt nhịp đa dạng, linh hoạt.

Tham khảo 1:

Tham khảo 2:

C. Hoạt động luyện tập

a. Đọc văn bản: Bếp lửa.

b. Tìm hiểu văn bản.

(1) Bài thơ mang hình thức là lời của nhân vật trữ tình- người cháu hồi tượng lại những kỉ niệm với bà, Dựa vào cốt tự sự và mạch tâm trạng nhân vật trữ tình, em hãy tìm bố cục của bài thơ.

(2) Trong ba câu thơ đầu, hình ảnh bếp lửa hiện lên qua những từ ngữ nào? Tại sao khi nhớ về bếp lửa, nhân vật trữ tình lại thấy “thương bà biết mấy nắng mưa”?

(3) Qua bài thơ em hình dung như thế nào về nhân vật người cháu và hoàn cảnh sống của hai bà cháu?

(4) Qua sự hồi tượng của người cháu, hình ảnh bà hiện lên như thế nào? Tình cảm bà cháu còn gắn liền với những tình cảm nào khác?

(5) Theo em, hình ảnh bếp lửa trong bài thơ có ý nghĩa gì? Trình bày suy nghĩa của em về sự chuyển hóa từ bếp lửa thành ngọn lửa trong hai câu thơ:

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

(6) Chỉ ra và nhận xét về tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và biểu cảm

(1) Bài thơ có bố cục như sau:

– Ba dòng thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi ức vé bà.

– Bốn khổ tiếp theo: Hồi tưởng những kỉ niệm ấu thơ gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

– Hai khổ tiếp theo: Suy ngẫm của cháu về bà.

– Khổ cuối: Tình cảm của người cháu đi xa không nguôi nhớ về bà.

(2) Trong ba câu thơ đầu, hình ảnh bếp lửa hiện lên qua những từ ngữ: “Chờn vờn sương sớm/ ấp iu nồng đượm”.

Khi nhớ về bếp lửa, nhân vật trữ tình lại thấy “thương bà biết mấy nắng mưa” bởi lẽ hình ảnh “bếp lửa” là biểu hiện cụ thể và sinh động về sự tần tảo, chăm sóc và yêu thương của người bà đối với con cháu trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Trước sự hy sinh của bà, người cháu luôn “thương bà biết mấy nắng mưa”. Từ đó làm bật lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không thể tà xiết vì những “nắng mưa”, khó nhọc vất vả của cuộc đời bà. Từ “thương” diễn đạt rất chân thật mà giản dị không chút hoa mỹ tấm lòng yêu mến bà của cháu.

(3) Qua bài thơ em hình dung dược cuộc sống của hai bà cháu lúc bấy giờ vô cùng vất vả. Người bà phải làm lụng vất vả, một nắng hai sương, tần tảo sớm hôm chăm sóc cho người cháu của mình. Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945. Ngày tháng ấy đến người cha đương sức trẻ phải “khô rạc ngựa gầy” mà không đủ ăn. Vậy mà bà đã già cả, ốm yếu lại một tay nuôi dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn. Tám năm ở cùng bà khi che mẹ bận công tác, bà dạy cháu học, dạy cháu làm, bà kể chuyện cháu nghe, chia sẻ với cháu nỗi vắng mẹ, cặm cụi nhóm lửa, nuôi nấng cháu. Năm giặc đốt làng, đốt nhà, bà vẫn vững lòng dặn cháu giữ kín chuyện để bố mẹ yên tâm công tác, bà vẫn sớm chiều nhen nhóm ngọn lửa ủ ấm lòng cháu. Đó chính là những kỉ niệm về bà cũng thấm đậm yêu thương mà người cháu chẳng thể quên được.

(4) Tình cảm bà cháu trong bài thơ rất sâu nặng. Đây là lời yêu thương tha thiết của người cháu nơi xa đối với bà: Tình cảm ấy vượt qua chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian, neo đậu mãi trong trái tim cháu. Tuổi thơ của cháu đã đi qua theo năm tháng, khoảng cách giữa bà và cháu cũng đã xa vời vợi nhưng cháu chẳng lúc nào quên nhắc nhở về bà.

Tình cảm bà cháu còn gắn liền với tình yêu quê hương đất nước những tháng ngày chiến đấu khắc nghiệt.

(5) Hình ảnh bếp lửa có ý nghĩa:

– Bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh bà, nhớ đến bếp lửa là cháu nhớ đến bà và cuộc sống gian khổ.

– Bếp lửa bàn tay bà nhóm mỗi sớm mai là nhóm tình yêu thương, niềm vui sưởi ấm, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm, những tâm tình và ước vọng của tuổi thơ.

– Bếp lửa là tình cảm yêu thương, bình dị mà thiêng liêng của bà.

– Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn…

(6) Thông qua biện pháp tự sự kết hợp miêu tả tác giả đã kể lại những kỉ niệm tuổi thơ của những năm tháng khó khăn bên bà đồng thời cũng thể hiện tình bà cháu thiêng liêng, sự hi sinh của bà dành cho cháu cũng như tình yêu thương của người cháu dành cho bà.

a. Từ tượng thanh, từ tượng hình.

(1) Nêu khái niệm về từ tượng thanh bà từ tượng hình. Cho ví dụ minh họa.

(2) Kể tên một số con vật trong tiếng Việt có nguồn gốc từ từ tượng thanh.

(3) Trong những câu thơ sau từ nào là từ tượng hình? Các từ tượng hình ấy có giá trị biểu đạt như thế nào?

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

(4) Chỉ ra và phân tích ý nghĩa và giá trị của những từ tượng thanh trong nhưng câu sau:

– Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.

(Nguyễn Tuân- Người lái đò sông Đà) Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương Mái nhì man mác nước sông Hương Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường. (Tố Hữu-Quê mẹ)

(1) Khái niệm, ví dụ:

– Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng dấp, dáng vẻ, trạng thái,… của sự vật. Phần lớn từ tượng hình là từ láy. Ví dụ: thăm thẳm, mênh mông, nhấp nhô, khấp khểnh, phập phồng, mấp mô, lẻo khẻo, khệnh khạng…

– Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người. Ví dụ: róc rách, ha hả, hềnh hệch, hu chúng tôi dáng vẻ, trạng thái của sự vật.

(2) Kể tên một số con vật trong tiếng Việt có nguồn hốc từ tượng thanh: tú hú, bìm bịp, chuồn chuồn

(3) Các từ tượng hình là:

– “chờn vờn”: Miêu tả hình ảnh bếp lửa bập bùng mù mờ trong sương sớm, khiến cho người đọc có cảm giác ám ảnh về hình tượng bếp lửa, nó chờn vờn hiện về như một câu truyện cổ tích lung linh kì ảo.

– “ấp iu”: Miêu tả hành động nâng niu chăm sóc của đôi bàn tay

– “thướt tha”: Miêu tả cảnh buổi chiều lúc Thúy Kiều và Kim Trong chia tay, thể hiện cảnh đẹp, yêu kiều như một người con gái nhưng buồn

(4) Các từ tượng thanh:

– cuồn cuộn, gùn gè: miêu tả sự dữ dội của dòng sông

– man mác: Miêu tả dòng nước sông Hương

– nhè nhè: miêu tả tiếng mẹ ru ầu ơ đưa con vào giấc ngủ

b. Một số phép tu từ

(1) Hoàn thành bảng sau vào vở:

là biện pháp dùng tên gọi của một cái bộ phận để chi cho toàn thể. Tức là gọi tên sự vật/hiện tượng này bằng một tên sự vật/hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nhau để tăng sức gợi hình và gợi cảm trong diễn đạt

Một cây làm chẳng lên non

Ba cây chụm lại lên hòn núi cao

là biện pháp lặp lại một từ, một ngữ hoắc cả câu để nhấn mạnh nội dung được nói đến.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Chơi chữ là cách lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa nhằm tạo ra sắc thái dí dỏm, hài hước trong khi nói và viết.

Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt.

Luồn lách lươn lẹo lại lên lương

D. Hoạt động vận dụng

1. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận và Bếp lửa của Bằng Việt đều có những yếu tố tự sự. Hãy cho biết các yếu tố tự sự trong các bài thơ ấy có vai trò gì ?

5. Vận dụng những kiến thức về phép tu từ từ vựng để phân tích giá trị biểu đạt của những đoạn trích sau:

(1)

Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.

(2)

Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chọ biết vào tay ai

(3)

Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn lại quen nhau Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi chi kỉ

(4)

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. (Hồ Chí Minh, Ngắm trăng)

(5)

Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập của.

E. Hoạt động tìm tòi mở rộng.

1. Sưu tầm hoặc giới thiệu 1-2 bài thơ về sự giàu đẹp của biển

(1)

– Phép ẩn dụ: Hoa, cánh dùng để chỉ Thúy Kiều. Lá, cây: dùng để chỉ gia đình Kiều.

– Tác dụng: thể hiện sự hi sinh vì gia đình của Kiều một cách cảm động sâu sắc.

(2)

– Phép so sánh: người con gái được so sánh với tấm lụa đào bán ngoài chợ.

– Tác dụng: Thể hiện sự bơ vơ, vô định của người con gái thời phong kiến, họ bị coi như đồ vật đem buôn bán.

(3)

– Biện pháp ẩn dụ, liên tưởng:” súng bên súng”; “đầu sát bên đầu”

– Tác dụng: gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính.

(4)

– Phép nhân hóa: vầng trăng cũng có tình cảm, hành động như con người, nhòm vào khe cửa để ngắm nhìn con người.

– Tác dụng: làm tăng sự sinh động của hình ảnh, nói lên sự gắn bó tri âm tri kỉ giữa trăng và người.

(5)

– Phép ẩn dụ, liên tưởng: mặt trời như hòn lửa, sáng là chiếc then cửa, màn đêm là cánh cửa khổng lồ.

– Tác dụng: Vũ trụ đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn.

Bài 11. Đoàn Thuyền Đánh Cá

Nhà thơ Huy Cận: Người sắm cả “hai vai” (Toquoc)- Sinh thời, nhà biên kịch Tào Mạt (1) có một câu nói khá nổi tiếng, mà trong giới văn nghệ thời ấy ai cũng biết: “Đã làm Hề thì đừng làm Quan, đã làm Quan thì đừng làm Hề” (2), tức là làm chính trị thì đừng làm nghệ sĩ. Thế nhưng, trớ trêu là ở đời có không ít người có tài sắm cả “hai vai” và xem ra khá thuận nữa đằng khác. Nhà thơ Huy Cận, có thể coi là một trường hợp điển hình về mẫu con người ấy.Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La, nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Ngày sinh trên giấy tờ công khai là do ông cậu của Huy Cận khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn, tức ngày 22/01/1917.Lúc nhỏ ông theo học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than, quận Hoàn Kiếm cùng nhà thơ Xuân Diệu- bạn tâm giao của nhà thơ Huy Cận và cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Tháng 8/1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời, trong đó có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng, nhà sử học Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, vào kinh đô Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại.Cách mạng tháng 8 thành công (8/1945), khi mới 28 tuổi, Cù Huy Cận đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong những năm 1945-1946, ông là Ủy viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ.Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ở cả hai thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách công tác văn hóa văn nghệ.Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học- Nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng đã từng là Đại biểu Quốc hội các khóa I, II, và VII. Huy Cận mất ngày 19/2/2005.Như vậy, đường quan lộ của Huy Cận dù chưa đạt tới đỉnh cao nhất, nhưng xem ra cũng không đến nỗi nào với hàm Bộ trưởng gần như suốt đời. Với hàm ấy, nhiều người đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực mà mình phụ trách, còn đối với Huy Cận dường như chỉ làm cho hết trách nhiệm trên giao hoặc giả là làm cho vui để lấy cảm hứng cho sáng tác thơ. Bởi lẽ những lĩnh vực mà ông từng phụ trách, dấu ấn cá nhân của ông để lại khá mỡ nhạt, nếu như không muốn nói là chẳng có gì đáng kể. Nhà thơ Huy Cận (ảnh http://truyenthong.omard.gov.vn)Sự ngiệp sáng tác của nhà thơ Cù Huy Cận được chia làm hai giai đoạn khá rõ nét.Giai đoạn trước tháng 8 năm 1945So với nhiều người cùng thời, Huy Cận có thơ đăng báo từ lúc còn khá trẻ, 19 tuổi và sau đấy 4 năm (1940) ông đã cho in tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”. Bắt đầu từ đây Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932-1941) lúc bấy giờ. Có người cho rằng, bao trùm “Lửa thiêng” là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình, theo kiểu: “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Chiều- Xuân Diệu). Dù có vẻ như buồn vô cớ, nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ ảo não, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Nếu không nói quá, chỉ cần một bài “Tràng giang” trong tập “Lửa thiêng” cũng đủ làm nên thơ hiệu

Soạn Bài: Đoàn Thuyền Đánh Cá – Ngữ Văn 9 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Huy Cận trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian Huy Cận đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh vào năm 1958. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

* Thể thơ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được viết theo thể thơ 7 chữ.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Bố cục: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá có thể được chia làm 3 phần:

Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi

Phần 2: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.

Phần 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh.

* Thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ: không gian rộng lớn, bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, gió. Còn thời gian ở đây là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.

Câu 2:

* Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian rộng lớn của vũ trụ, giữa biển cả bao la, rộng lớn.

* Tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người lao động trước thiên nhiên vũ trụ bằng những biện pháp nghệ thuật là: cảm hứng lãng mạn, bay bổng; liệt kê, nhân hóa, so sánh thể hiện được sự phong phú của các loài cá, vẻ đẹp kì diệu và sự giàu có của biển khơi. Qua đó, hiện lên hình ảnh người lao động thật đẹp, thật hăng say, con người như hòa quyện vào với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Câu 3:

Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp và tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ 1,3,4 và 7: Đó là hình ảnh cảnh biển về đêm rộng lớn, thật gần gũi với con người:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Tác giả so sánh mặt trời giống như hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Ở đây, trời và biển có sự giao hòa trọn vẹn, mặt biển mênh mông, rộng lớn sẽ làm cho “hòn lửa” mặt trời dịu êm hơn. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, còn màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Hay nói cách khác, vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian.

Câu 4:

Bài thơ có nhiều từ “hát”, cả bài thơ cũng như một khúc ca, đây là khúc ca ngợi ca lao động, tinh thần làm chủ và niềm vui phơi phới mà tác giả viết thay cho người dân lao động, cụ thể ở đây là những người lao động trên biển.

Âm hưởng và giọng điệu của bài thơ rất sôi nổi, khỏe khoắn, phơi phới và bay bổng. Có sự kết hợp của cả vần bằng và vần trắc, vần liền xen lẫn vần bằng. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh, còn vần bằng tạo nên sự vang xa, bay bổng.

Câu 5:

Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em thấy tác giả có một cái nhìn khá tươi mới, tràn đầy cảm xúc hào hứng. Mỗi hình ảnh thơ đều mang sức sống, mang niềm vui, cuốn theo tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la, hùng vĩ, giàu có vô tận của nhà thơ: cảnh cửa vũ trụ với hòn lửa mặt trời, cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim,…người lao động đang hăng say làm việc. Qua đó, cho chúng ta thấy tình yêu của tác giả đối với quê hương, đất nước, phải là một con người gắn bó với quê hương, gắn bó với người dân lao động làng chài thì mới có thể viết nên những vần thơ đẹp như thế.

4.4

/

5

(

16

bình chọn

)