Top 8 # Xem Nhiều Nhất Cách Giải Quyết Vấn Đề Dân Tộc Và Tôn Giáo Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Techcombanktower.com

Bài 3: Giải Quyết Vấn Đề Dân Tộc Và Tôn Giáo

Tóm tắt lý thuyết

Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:

Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng đc chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngừ chung của cộng đồng và ữong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có sư kê thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó.

Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu hanh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia – dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốíc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tô’ hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đây lẫn nhau trong quá trình phát triển.

Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:

Xu hướng thứ nhất. Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sông của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thảnh lập các quốc gia dân tộc độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực có nhiều cộng đồng dấn cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đâu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ỏ nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát hiển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, ván hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mốĩ liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp rát nhiều khó khăn, trỏ ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khôi liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quôc nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc còn nghèo nàn và lạc hậu.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, một thời đại mới đã xuất hiện – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là sự quá độ lên một xã hội trong đó các quyền tự do, bình đẳng và mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa người với người được thực hiện. Giai cấp công nhân hiện đại với sứ mệnh lịch sử của mình, cùng với nhân dân lao động sẽ sáng tạo ra xã hội đó.

Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển của nó, chủ nghĩa Mác – Lênin khăng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp, tinh trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng bị xóa bỏ.

Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đã trỏ thành giai cấp cầm quyền tạo tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành và phát triển của dân tộc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi sự cải tạo, xây dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủ nghĩa cũng chỉ có thể ra đời từ kết quả toàn diện trên mọi lĩnh vưc của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa – tư tưởng.

Dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự vận động mới theo hướng ngày càng tiến bộ, văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc sẽ phát huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia. Quan hệ dân tộc sẽ là biểu hiện sinh động của hai xu hướng đó trong điều kiện của công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để xây dựng quan hệ dân tộc bình đảng, hợp tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đảng sẽ là nhân tố quan trọng cho từng dân tộc nhanh chóng đi tới phồn vinh, hạnh phúc. Mỗi dân tộc không những có điều kiện khai thác tối đa tiềm năng của dân tộc mình để phát triển mà còn nhận được sự giúp đỡ, dựa vào tiềm năng của dân tộc anh em để phát triển nhanh chóng.

Sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia sẽ làm cho những giá trị, tinh hoa của các dân tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong phú thêm giá trị chung của quốc gia – dân tộc. Những giá trị chung đó sẽ lại trở thành cơ sở liên kết các dân tộc chặt chẽ, bền vững hơn.

Tóm lại, dân tộc và quan hệ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong toàn bộ nội dung của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Xã hội mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với sự phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự tăng cường tính thông nhất các dân tộc trở thành một quá trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính cộng đồng chung, tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ gìn và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.

Cùng với vầh đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết đinh đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vẩn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấh đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhấín mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Trên cơ sở tư tưởng của G Mác, Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấh đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Cương lình dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin là một bộ phận không thê tách rời trong cương linh cách mạng của giai cấp công nhân; là tuyên ngôn về vẫn đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Quyền bình đẳng giửa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thâp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, ván hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.

Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chôrìg chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triên đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia’ đều bĩnh đẳng trong quan hệ quốc tế.

Các dân tộc được quyền tự quyết

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị – xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sỏ bình đăng.

Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc

Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong Cương ỉũih dân tộc của V.I. Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.

Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đên việc xem xét, thực hiện quyền bình đăng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đâu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói chung, bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tồn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.

Với tư cách là một hĩnh thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phôi cuộc sông hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ồ trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, xác định, về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bê’ tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức tôn giáo cũng chứa đựng nhiều giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người.

Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa, chính trị. Tồn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế – xã hội, nhận thức và tâm lý. Khi trình độ con người thấp kém, bất lực trước sức mạnh của tự nhiên và của xã hội, con người đặt hy vọng vào những lực lượng siêu nhiên. Khi những hiện tượng tự nhiên, xã hội không thể giải thích được, thay vào đó người ta giải thích bằng tôn giáo. Tôn giáo góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trỏrìg vắng trong tâm hồn, xoa dịu nỗi đau của con người.

2.2 Vấn để tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau:

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức manh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức manh của thần linh.

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tô’ may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

Túi ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. BỞi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị-xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế – xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mốĩ quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tô’ mang tính chất bền vừng nhất ữong đời sông tính thần của mỗi con người, của xã hội.

Nguyên nhân chính trị – xã hội

Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tổn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lôĩ, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện… đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức thu hút manh mẽ đôi với một bộ phận quần chúng nhân dấn. Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tính thần của cộng đồng xã hội và ưong một mức độ nhầt định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tính thần, tình cảm của họ.

Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những ván đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn xác, có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác – Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hanh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá ttình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.

Khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi công dân. Công dân có tôn giáo hay không có tổn giáo đều bĩnh đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.

Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cârn mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá ưình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt này là việc Ịàm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh VƯC tôn giáo là nhiệm vu thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế.

Năm là, phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.

Dạy Học Đặt Vấn Đề Và Giải Quyết Vấn Đề

Dạy học đặt và giải quyết vấn đề không phải là một PPDH riêng biệt mà là một tập hợp nhiều PPDH liên kết chặt chẽ với nhau và tương tác với nhau, trong đó phương pháp xây dựng tình huống có vấn đề và dạy học giải quyết vấn đề giữ vai trò trung tâm, gắn bó các PPDH khác trong tập hợp. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề có khả năng thâm nhập vào hầu hết các PPDH khác và làm cho tính chất của chúng trở nên tích cực hơn. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề sẽ góp phần nâng cao tính tích cực tư duy của học sinh, gắn liền hai mặt kiến thức và tư duy, đồng thời hình thành ở học sinh nhân cách có khả năng sáng tạo thực sự, góp phần rèn luyện trí thông minh cho học sinh.

Mỗi một PPDH đều phải xem xét khả năng sử dụng các tình huống có vấn đề ở giai đoạn tương ứng của việc lĩnh hội kiến thức.

BẢN CHẤT CỦA DẠY HỌC ĐẶT VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Bản chất của dạy học đặt và giải quyết vấn đề là giáo viên đặt ra trước học sinh các vấn đề của khoa học (các bài toán nhận thức) và mở ra cho các em những con đường giải quyết các vấn đề đó; việc điều khiển quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh ở đây được thực hiện theo phương pháp tạo ra một hệ thống những tình huống có vấn đề, những điều kiện bảo đảm việc giải quyết những tình huống đó và những chỉ dẫn cụ thể cho học sinh trong quá trình giải quyết các vấn đề.

Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là sự tổng hợp những hoạt động nhằm tổ chức các tình huống có vấn đề, trình bày các vấn đề; giúp đỡ cần thiết cho học sinh trong việc giải quyết vấn đề và kiểm tra những cách giải quyết đó; cuối cùng là lãnh đạo việc vận dụng kiến thức.

Dạy học đặt và giải quyết vấn đề có ba đặc trưng cơ bản sau:

1. Giáo viên đặt ra trước học sinh một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm, nhưng chúng được cấu trúc lại một cách sử phạm, gọi là những bài tập nêu vấn đề- ơrixtic (những bài toán nêu vấn đề nhận thức và yêu cầu phải tìm tòi- phát hiện).

2. Học sinh tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán ơrixtic như mâu thuẫn của nội tâm mình và được đặt vào hình huống có vấn đề, tức là trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết bằng được bài toán đó.

3. Trong và bằng cách tổ chức giải bài toán ơrixtic mà học sinh lĩnh hội một cách tự giác và tích cực cả kiến thức, cả cách thức giải và do đó có được niềm vui sướng của sự nhận thức sáng tạo (“Ơrêka”- tôi tìm thấy).

Quá trình dạy học giải quyết vấn đề là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn sự nghiên cứu tự lực, tự phát hiện tích cực và sáng tạo các chân lí khoa học ở học sinh. Có thể nói đó là sự nghiên cứu khoa học thu hẹp trong khuôn khổ của sự dạy học. Tương tự như quá trình nghiên cứu khoa học, quá trình dạy học giải quyết vấn đề cũng bao gồm ba giai đoạn: 1) Quan sát và đề xuất vấn đề cần nghiên cứu học tập (xây dựng tình huống có vấn đề); 2) Giải quyết vấn đề (xây dựng và kiểm tra giả thuyết); và 3) Vận dụng độc lập kiến thức mới. Tuy nhiên mỗi yếu tố, mỗi giai đoạn đó đã có sự biến đổi do điều kiện của sự dạy học

a. Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi có mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức được học sinh chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần có thể giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình huống về lí thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết .

b. Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó qui định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết các vấn đề .

c. Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc đáo của người gặp chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt bước mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực đầy hưng phấn, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của phát hiện.

d. Như vậy có thể coi tình huống có vấn đề trong dạy học là trạng thái tâm lí đặc biệt của học sinh khi họ gặp mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ nắm được cả kiến thức và phương pháp giành kiến thức.

2. Các yếu tố của tình huống có vấn đề

Tình huống có vấn đề chỉ xuất hiện và tồn tại trong ý thức người học sinh chừng nào đang diễn ra sự chuyển hóa của mâu thuẫn khách quan bên ngoài của bài toán nhận thức thành mâu thuẫn chủ quan bên trong của học sinh. Yếu tố chủ yếu của tình huống có vấn đề là điều chưa biết, là điều phải được khám phá ra để hoàn thành đúng nhiệm vụ đặt ra. Điều chưa biết trong tình huống có vấn đề luôn được đặc trưng bởi một sự khái quát hóa ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, điều chưa biết đó không được quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh.

Như vậy có thể nêu ra ba yếu tố sau đây của một tình huống có vấn đề, đó cũng là ba điều kiện của một tình huống có vấn đề trong dạy học:

a. Có mâu thuẫn nhận thức, có điều chưa biết cần tìm. Có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm. Điều chưa biết có thể là mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm. Điều chưa biết có thể là mối liên hệ chưa biết, hoặc cách thức hay điều kiện hành động. Đó chính là kiến thức mới sẽ được khám phá ra trong tình huống có vấn đề.

b. Gây ra nhu cầu muốn biết kiến thức mới. Thế năng tâm lí của nhu cầu nhận thức là động lực khởi động hoạt động nhận thức của học sinh; nó sẽ góp phần làm cho học sinh đầy hưng phấn tìm tòi phát hiện, sáng tạo giải quyết nhiệm vụ nhận thức đặt ra.

c. Phù hợp với khả năng của học sinh trong việc phân tích các điều kiện của nhiệm vụ đặt ra và trong việc đi tìm điều chưa biết, nghĩa là trong việc phát hiện kiến thức mới. Tình huống có vấn đề nên bắt đầu từ cái quen thuộc, bình thường, đã biết (từ vốn kiến thức cũ của học sinh, từ những hiện tượng thực tế…) mà đi đến cái bất thường (kiến thức mới) một cách bất ngờ nhưng logic.

3. Cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học Hóa học

Sự nghiên cứu lí luận và thực tiễn cho thấy có nhiều loại tình huống có vấn đề và nhiều cách tạo ra (làm xuất hiện) các tình huống có vấn đề trong dạy học.

Cần nêu ra nguyên tắc chung làm xuất hiện tình huống có vấn đề trong dạy học, sau đó sẽ phân loại các cách tạo tình huống có vấn đề trong dạy học.

Nguyên tắc chung: Dựa vào sự không phù hợp giữa kiến thức đã có của học sinh với yêu cầu đặt ra cho họ khi giải quyết nhiệm vụ mới.

Theo nguyên tắc chung này, có thể nêu ra ba cách tạo ra các tình huống có vấn đề, đó cũng là ba kiểu tình huống có vấn đề cơ bản trong dạy học Hóa học (1).

Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi kiến thức học sinh đã có không phù hợp (không đáp ứng được) với đòi hỏi của nhiệm vụ học tập hoặc với thực nghiệm.

Ở đây sẽ xuất hiện tình huống không phù hợp (cũng là tình huống khủng hoảng, bế tắc) hoặc tình huống bất ngờ (cũng là tình huống ngạc nhiên).

Có thể alogrit hóa quá trình tạo tình huống có vấn đề theo cách này thành ba bước như sau:

Bước 2: Đưa ra hiện tượng (có thể làm thí nghiệm, hoặc nêu ra một hiện tượng, một kinh nghiệm) mâu thuẫn hoặc trái hẳn với kết luận vừa được nhắc lại, điều đó sẽ gây ra sự ngạc nhiên.

Bước 3: Phát biểu vấn đề: đi tìm nguyên nhân của mâu thuẫn hoặc giải thích hiện tượng lạ đó.

Ví dụ: Tạo ra tình huống có vấn đề khi nghiên cứu tính oxi hóa của axit sunfuric đặc nóng.

Bước 2. Làm xuất hiện mâu thuẫn: làm thí nghiệm biểu diễn về tác dụng của axit sunfuric đặc nóng với đồng (là kim loại đứng sau hiđro). Vẫn thấy có phản ứng hóa học xảy ra. Khí tạo ra không phải là H 2 mà là SO 2.

Bước 3. Phát biểu vấn đề: H 2SO 4 đặc nóng có tác dụng cả với đồng là kim loại đứng sau hiđro trong dãy hoạt động hóa học của kim loại. Nguyên nhân sự không phù hợp với điều đã biết về tác dụng của axit với kim loại là ở đâu? Axit sunfuric đặc nóng còn có những tính chất của axit không hay có thêm những tính chất gì mới?

Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi học sinh lựa chọn trong những con đường có thể có một con đường duy nhất bảo đảm việc giải quyết được nhiệm vụ đặt ra.

Khi đó xuất hiện tình huống lựa chọn hoặc tình huống bác bỏ (phản bác).

Ví dụ: Quá trình tạo ra tình huống lựa chọn hoặc tình huống bác bỏ công thức cấu tạo của rượu etylic cũng gồm ba bước sau:

Bước 1. Tái hiện kiến thức cũ, nêu nhiệm vụ mới cần giải quyết: rượu etylic có công thức phân tử C 2H 6 O phải có công thức cấu tạo như thế nào?

Bước 2. Làm xuất hiện mâu thuẫn, nêu các giả thuyết: ứng với công thức phân tử C 2H 6 O có thể có 2 công thức cấu tạo:

(1) (2)

Bước 3. Phát biểu vấn đề: Giả thuyết nào là đúng, các giả thuyết khác vì sao không đúng? Làm thí nghiệm và lập luận xem công thức (1) hoặc (2) phù hợp với tính chất của rượu etylic.

Có thể tạo ra tình huống có vấn đề khi học sinh phải tìm đường ứng dụng kiến thức trong học tập, trong thực tiễn hoặc tìm lời giải đáp cho câu hỏi “tại sao”.

Lúc đó xuất hiện tình huống vận dụng hoặc tình huống tại sao.

Ví dụ: Tạo ra tình huống có vấn đề khi nghiên cứu tính chất lưỡng tính của nhôm hiđroxit (Hóa học lớp 12).

Bước 2. Đưa ra hiện tượng có chứa mâu thuẫn với kiến thức cũ gây ra lúng túng bế tắc khi giải quyết vấn đề trong học tập hay trong thực tiễn: đổ một lượng nhỏ dung dịch nhôm clorua (AlCl 3) vào lượng lớn dung dịch NaOH thì không thu được kết tủa tuy lúc đầu có xuất hiện nhưng lại tan đi ngay.

Bước 3: Tìm nguyên nhân của bế tắc, lúng túng và tìm những con đường khác nhằm vận dụng kiến thức đã học để có thể giải quyết được nhiệm vụ đặt ra: tìm nguyên nhân của việc không thu được kết tủa nhôm hiđroxit và tìm cách khắc phục.

4. Câu hỏi có tính chất nêu vấn đê

“Câu hỏi nêu vấn đề” là mắt xích cuối cùng nhưng quyết định sự thành bại của toàn bộ việc tổ chức tình huống có vấn đề. Việc xây dựng tình huống có vân đề kết thúc ở chỗ vấn đề được nêu lên dưới hình thức “câu hỏi nêu vấn đề”

Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi về cái chưa biết, thường xuất phát từ phía học sinh hơn là phía giáo viên. Câu hỏi nêu vấn đề bao giờ cũng nhằm kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của học sinh, buộc các em phải vận dụng những thao tác tư duy khác nhau, phải giải thích, chứng minh, tự kết luận. Để trả lời những câu hỏi nêu vấn đề, học sinh cũng phải tái hiện kiến thức cũ, nhưng không phải dưới dạng “kiến thức cũ nguyên xi” mà học sinh phải gia công thêm, kết hợp các kiến thức đó với nhau…

Câu hỏi nêu vấn đề khác với “câu hỏi thông báo”. Những câu hỏi có tính chất thông báo chỉ đòi hỏi sự nhớ lại (tái hiện) kiến thức cũ đã biết, yêu cầu chủ yếu trí nhớ của học sinh mà không động viên sự tìm tòi của các em. Chẳng hạn, học sinh đã học định nghĩa của oxit, giáo viên chỉ hỏi “oxit là gì?”.

Câu hỏi nêu vấn đề phải có những đặc điểm sau:

a. Phải chứa đựng một mâu thuẫn nhận thức. Điều đó chỉ đạt được khi câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên trong giữa điều đã biết và điều phải tìm.

b. Phải chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời. Nghĩa là phải tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra con đường đúng đắn nhất để giải quyết vấn đề.

C. Phải phản ánh được tâm trạng ngạc nhiên của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức, khi đụng chạm tới vấn đề.

Chẳng hạn, sau khi học về các oxit, giáo viên nêu câu hỏi: “Tại sao trong tự nhiên không tồn tại canxi oxit (hoặc anhiđrit photphoric) ở dạng tự do?”. Câu hỏi này khác với câu hỏi chỉ có tính chất thông báo như: “Canxi oxit có tan trong nước không?” hoặc (Canxi oxit có tác dụng với nước không?”.

Dương Xuân Thành

Nguồn: giáo trình phương pháp giảng dạy của thầy Nguyễn Cương

Kỹ Năng Giải Quyết Vấn Đề Là Gì Và Các Bước Giải Quyết Vấn Đề

Việc làm Quản lý điều hành

1. Khái niệm và tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề

Có bao giờ bạn từng nghĩ rằng mình sẽ ra sao khi ba mẹ ly hôn, khi bạn bè chọc ghẹo, khi đồng nghiệp cạnh khóe, khi bị sếp la mắng,… hay đơn giản khi bạn thất bại trong một vấn đề cụ thể nào đó. Hàng ngày và thậm chí là hàng giờ, những rắc rối và những khó khăn xung quanh vẫn “trực chờ” chúng ta lơ đãng, bất cẩn một chút để chúng “nhào tới”, “xâu xé” và biến chúng ta trở thành những “chú chuột” sợ hãi.

Đến đây Hạ Linh tin chắc rằng bạn đã hiểu kỹ năng giải quyết vấn đề là gì rồi, đúng không nào? Nghệ sĩ Trấn Thành – một người có sức ảnh hưởng về nhận thức của giới trẻ ngày nay đã từng chia sẻ với khách mời trong một chương trình truyền hình: “Trường học nó khác trường đời ở chỗ, trường học cho chúng ta bài học, sau đó bắt chúng ta làm kiểm tra. Còn ở trường đời, bắt chúng ta làm kiểm tra trước rồi sau đó mới cho chúng ta bài học”. Câu nói này làm chúng ta “thức tỉnh” kịp thời khi đang “bơi” trong một “biển hỗn độn” các vấn đề mà chúng ta đang gặp phải.

Trên thực tế, trường học là nơi chỉ dạy cho chúng ta những nền tảng kiến thức về các lĩnh vực, các môn học mà không hề dạy cho chúng ta các kỹ năng mềm, điều này khiến cho phần lớn giới trẻ ngày nay có phần bị động và ỷ lại người khác giải quyết thay vấn đề của mình. Có rất nhiều kỹ năng mềm mà bạn nên học để chuẩn bị hành trang bước vào đời. Trong đó, có kỹ năng giải quyết vấn đề. Để đi được đúng lộ trình, để vượt qua những con đường quanh co và những chướng ngại vật trên con đường ấy, kỹ năng giải quyết vấn đề là yếu tố quan trọng quyết định.

Chẳng hạn, khi đang đi trên một con đường, bạn gặp phải một con thú dữ, người có kỹ năng giải quyết vấn đề sẽ biết vận dụng hết mọi giải pháp tối ưu nhất để có thể thuần phục được con thú, nhưng người không có kỹ năng giải quyết vấn đề sẽ chỉ biết quay lưng bỏ chạy, con thú vẫn đuổi mãi, đuổi mãi và đến lúc bạn kiệt sức không còn chạy được nữa, nó sẽ tiến tới và nuốt chửng lấy bạn.

Kiến thức nền tảng là vô cùng quan trọng để định vị bạn là ai trong cuộc sống này, tuy nhiên nếu chỉ có kiến thức mà không có những kỹ năng mềm như kỹ năng giải quyết vấn đề thì bạn chỉ là một cá nhân dậm chân tại chỗ mà thôi. Hạ Linh có thể ví von về tầm quan trọng của kỹ năng mềm nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề nói riêng cho các bạn dễ hiểu như sau: trước khi bước chân vào cuộc sống, hành trang của bạn là một chiếc la lô, nếu kiến thức nền tảng cứng là những thứ bên trong của chiếc ba lô đó, thì hai quai vai chính là hệ thống các kỹ năng mềm. Và chắc hẳn, một chiếc ba lô sẽ chẳng mang theo bên mình bạn mãi được nếu mất đi hai quai vai, đúng không nào?

Việc làm Quản trị kinh doanh

2. Các bước giải quyết vấn đề

Nếu ai đó nói với bạn rằng, kỹ năng mềm chỉ cần một vài lần trải nghiệm là có được thì quan điểm ấy hoàn toàn sai lầm. Kỹ năng mềm nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề nói riêng luôn đòi hỏi bạn phải thực hiện, rèn luyện đúng quy trình. Nếu bạn không tuân thủ và bỏ qua một vài bước trong quy trình đó, kết quả thu lại đôi khi sẽ không như bạn mong muốn. Để trang bị cho mình kỹ năng giải quyết vấn đề, bạn nên tuân thủ một lộ trình các bước như sau:

Bạn nên hiểu rằng, bất cứ một vấn đề nào phát sinh đều có gốc gác và nguyên do của nó. Chằng hạn như một chiếc cốc đang đựng nước nóng, bỗng nhiên nó bị vỡ ra thì nguồn gốc của vấn đề này chắc chắn là do nhiệt độ của nước quá nóng, và cái cốc không thể chịu được áp lực đó. Nếu bạn đã biết rõ nước nóng chính là nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ của cái cốc, thì lần sau nữa, bạn sẽ tự ý thức rằng không dùng chiếc cốc đó để đựng nước nóng.

Điều này hoàn toàn có thể đối chiếu sang cách bạn giải quyết vấn đề khi gặp phải. Tuy nhiên, về cơ bản vấn đề đáng nói hơn cái cốc bị vỡ nhiều. Cái tôi muốn nói ở đây, chính là bạn phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân và phân tích mức độ của vấn đề bạn đang gặp phải. Bạn có thể đặt ra một số câu hỏi để tự trả lời như: vấn đề này có quan trọng hay không? Bản chất của vấn đề là gì? Mức độ khó, dễ của vấn đề?,…

Điều này ứng dụng trong công việc hay trong quá trình tìm việc làm cũng cực kỳ hiệu quả. Khi bản thân bạn nhìn nhận vấn đề gặp phải một cách đúng đắn bạn sẽ biết cách xử lý vấn đề ấy ra sao.

Hiểu vấn đề là bước tiếp theo bạn nên làm sau hai bước quan trọng ở trên. Tốt nhất, hãy nhìn vấn đề theo nhiều chiều hướng và khía cạnh khác nhau. Khi bạn nhìn vấn đề theo nhiều góc độ, bạn sẽ phát hiện ra nhiều điểm mấu chốt quan trọng mà đôi khi nhìn theo một hướng sẽ không thể nhìn thấy.

Sau khi đã hiểu ra gốc rễ, nguồn cội của vấn đề, bạn hãy trực tiếp lên kế hoạch cho các giải pháp mà bạn cho là có hiệu quả và có thể vận dụng được để giải quyết. Các giải pháp nên đưa ra nhiều, phù hợp với từng khía cạnh và góc độ bạn nhìn nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là cuối cùng, bạn phải tự xác nhận và lựa chọn ra một giải pháp hữu hiệu nhất.

Đây cũng là một bước tương đối khó khăn, vì vậy bạn nên vận dụng các câu hỏi để loại trừ dẫn đén những khả năng mà giải pháp có thể thực hiện, chẳng hạn như: các giải pháp sẽ diễn ra như thế nào? Các giải pháp sẽ làm hài lòng mục tiêu của bạn đến mức độ nào? Bạn sẽ tốn bao nhiêu công sức và chi phí khi thực hiện các giải pháp? Hiệu quả mà giải pháp mang lại có giải quyết triệt để được vấn đề hay không?,… Sau khi tìm ra được các câu trả lời cho các câu hỏi trên, thứ bạn nhận lại cuối cùng sẽ là một giải pháp mang tính thực thi và hiệu quả nhất rồi đấy!

Dĩ nhiên, sau khi đã nắm trong tay thứ vũ khí tối ưu nhất, bạn có thể sẵn sàng tham gia vào trận chiến bất cứ lúc nào. Đừng e dè, vì dám đối diện với vấn đề là bạn đã nắm được trong tay 49,99% chiến thắng rồi.

Bước cuối cùng bạn nên làm và nó cũng quan trọng không kém những bước trên. Đó là đánh giá lại kết quả hay đánh giá lại vấn đề. Điều này sẽ giúp bạn nhìn nhận lại một lần nữa tổng thể về vấn đề. Vấn đề đã được giải quyết hay chưa? Giải pháp đã áp dụng có làm hài lòng mục tiêu của bạn hay không?

Đánh giá lại vấn đề sẽ giúp bạn đúc kết được những trải nghiệm, kinh nghiệm quý báu, giúp bạn nhận thức việc chủ động rèn luyện các kỹ năng giải quyết vấn đề để lần sau nếu đứng trước một vấn đề tiếp tục phát sinh, bạn sẽ mạnh dạn và tự tin hơn. Điều này cũng giúp bạn rút kinh nghiệm để vấn đề bạn đang gặp phải sẽ không lặp lại một lần nào nữa.

3. Một số lời khuyên và tâm sự về kỹ năng giải quyết vấn đề

Hy vọng rằng khi đã đọc đến những dòng chữ này, bạn đã hiểu bản chất và tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề là gì? Đứng trước một vấn đề, có người sẽ đổ lỗi cho người khác hoặc đổ lỗi cho hoàn cảnh, có người sẽ chỉ đứng nhìn mà chơi vơi không biết phải làm gì, có người sẽ “nhảy bổ” vào giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, cũng có người đứng trước một vấn đề, họ khựng lại một chút, bình tĩnh một chút để “ủ mưu” cho một giải pháp tối ưu nhất.

Và người ta hơn nhau ở chỗ đấy, người đổ lỗi là người không có trách nhiệm, người không làm gì là người nhút nhát, người “nhảy bổ” vào vấn đề là người vội vàng, hấp tấp. Chỉ có người bình tĩnh đối diện với vấn đề mới đáng để chúng ta học hỏi. Kỹ năng giải quyết vấn đề không phải ngày một, ngày hai mà bạn có thể sở hữu được, không phải là một bài hát nghe đi nghe lại mỗi ngày mà bạn có thể thuộc lòng, mà giải quyết một vấn đề cần phải tuân thủ theo những nguyên lý và quy trình nhất định.

Bạn nên nhớ một điều rằng: thứ nhất, không có vấn đề nào mà không thể giải quyết được, bạn có thể thay đổi vấn đề, có thể chấp nhận vấn đề, có thể đập bỏ vấn đề thì đó cũng là những cách mà bạn giải quyết vấn đề đó. Thứ hai, không có vấn đề nào được giải quyết giống vấn đề nào, cho nên giải quyết vấn đề không nên dựa vào kinh nghiệm. Bạn có thể chấp nhận không có giải pháp nào là tối ưu, nhưng sẽ có cách giảm thiểu ít nhất những rủi ro mà vấn đề mang lại. Thứ ba, không nên lệ thuộc vào những giải pháp sẵn có, không phụ thuộc vào những giải pháp của những chuyên gia hay những người nổi tiếng. Bởi vì, khi bối cảnh dịch chuyển, thì giải pháp cho vấn đề có thể hoàn toàn khác. Thứ tư, nếu vấn đề có thời gian thì nên tập trung mọi sức lực và trí tuệ để giải quyết.

Đừng chịu thua vấn đề, hãy cứ đưa ra giải pháp này đến giải pháp khác, cho đến khi vấn đề được giải quyết một cách tốt nhất. Đừng giải quyết vấn đề theo những phương pháp sẵn có. Trong đường đời của chúng ta, vấn đề sẽ có thể đến “làm bạn” bất cứ lúc nào trên hầu hết các khía cạnh cuộc sống, tình yêu, hôn nhân, gia đình, kinh doanh hay học tập,… Đừng đi theo đám đông, đừng chạy theo xu hướng khi đọc được những lời dạy hay ho của một chuyên gia nổi tiếng nào đó. Tất nhiên, các chuyên gia nói không sai, nhưng nó chỉ đúng trong bối cảnh đấy, trong vấn đề đấy, nó có thể hoàn toàn sai lầm với bối cảnh và vấn đề mà bạn đang gặp phải.

Kỹ Năng Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định

Quy trình giải quyết vấn đề (tạm chia làm 8 bước):

1. Nhận ra vấn đề

Trước khi bạn cố tìm hướng giải quyết vấn đề, bạn nên xem xét kỹ đó có thật sự là vấn đề đúng nghĩa hay không, bằng cách tự hỏi: chuyện gì sẽ xảy ra nếu…?; hoặc: giả sử như việc này không thực hiện được thì…? Bạn không nên lãng phí thời gian và sức lực vào giải quyết nếu nó có khả năng tự biến mất hoặc không quan trọng. Để nhận ra vấn đề, bạn phải có một bản kế hoạch và luôn bám sát theo nó. Hãy nhờ một người bạn tin tưởng làm cố vấn giúp bạn nhận ra vấn đề. Bởi không phải lúc nào bạn cũng nhìn thấy từ góc nhìn của mình.

2. Xác định chủ sở hữu của vấn đề

Không phải tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến bạn đều do chính bạn giải quyết. Nếu bạn không có quyền hạn hay năng lực để giải quyết nó, cách tốt nhất là chuyển vấn đề đó sang cho người nào có thể giải quyết.

Có một câu nói nửa đùa nửa thật nhưng cũng đáng để bạn lưu ý: “Nhiệt tình cộng với thiếu hiểu biết đôi khi thành phá hoại”.

3. Nhìn nhận và phân tích để hiểu vấn đề

Ở đây ta cần xác định được những thông tin của công việc bằng cách đặt ra những câu hỏi.

– Tính chất của công việc (khẩn cấp, quan trọng)? – Yêu cầu chỉ thị của cấp trên là gì? – Nguồn lực để thực hiện công việc? – Công việc này có thuộc quyền giải quyết của mình hay không? – Bản chất của công việc là gì? – Những đòi hỏi của công việc? – Mức độ khó – dễ của công việc?

4. Đề ra mục tiêu

Đặt ra mục tiêu sẽ giúp ta đi đúng hướng trong việc giải quyết vấn đề. Câu hỏi ở đây sẽ là: “Tôi đang cố gắng đạt được điều gì?”.

5. Đánh giá giải pháp

Sau khi đã tìm hiểu được cội rễ của vấn đề, bạn sẽ đưa ra được rất nhiều giải pháp để lựa chọn. Câu hỏi ở đây sẽ là:

– Trên cơ sở những thông tin có được và mục tiêu cần đạt được, các giải pháp mà tôi có thể chọn lựa là gì?

6. Chọn lựa và xác định giải pháp

Yếu tố sáng tạo sẽ giúp bạn tìm được giải pháp đôi khi hơn cả mong đợi. Cần lưu ý là một giải pháp tối ưu phải đáp ứng được ba yếu tố: có tác dụng khắc phục giải quyết vấn đề dài lâu, có tính khả thi, và có tính hiệu quả.

Ở giai đoạn này, bạn cần thử nghiệm tính khả thi của từng giải pháp nhưng chỉ là thử trong đầu. Các câu hỏi ở đây như sau:

– Các giải pháp sẽ được thực hiện như thế nào? – Chúng sẽ thỏa mãn các mục tiêu của tôi đến mức độ nào? – Phí tổn (về tài chính, thời gian, công sức…) cho việc áp dụng mỗi giải pháp là bao nhiêu? – Giải pháp nào tốt hơn, giải pháp nào tốt nhất?

7. Thực hiện

Khi bạn tin rằng mình đã hiểu được vấn đề và biết cách giải quyết nó, bạn có thể bắt tay vào hành động.

8. Đánh giá kết quả

Sau khi đã đưa vào thực hiện một giải pháp, bạn cần kiểm tra xem cách giải quyết đó có tốt không và có đưa tới những ảnh hưởng không mong đợi nào không. Những bài học rút ra được ở khâu đánh giá này sẽ giúp bạn giảm được rất nhiều “calori chất xám” và nguồn lực ở những vấn đề khác lần sau.

Có thể bạn sẽ cảm thấy hơi rườm rà nếu làm theo các bước trên. Vạn sự khởi đầu nan. Lần đầu tiên áp dụng một kỹ năng mới bao giờ cũng đòi hỏi sự kiên nhẫn và quyết tâm của bạn. Nếu bạn thường xuyên rèn luyện, thì dần dần kỹ năng giải quyết vấn đề sẽ trở thành phản xạ vô điều kiện.

K: Sự hiểu biết – Kiến thức (Knowledge)

O: Mục tiêu (Objectives)

A: Phương án (Alternatives)

L: Đánh giá và lựa chọn (Look ahead)

A: Hành động (Action).

– Hãy nghĩ ra càng nhiều giải pháp càng tốt cho mọi vấn đề bạn đang gặp phải. Nhận phản hồi từ những người xung quanh có những quan điểm, suy nghĩ khác để có tầm nhìn rộng hơn và từ đó, chọn ra một giải pháp.

– Luyện tập, hình dung trước và giải quyết vấn đề trước khi chúng phát sinh. Ví như, trên đường đi làm, bỗng nhiên xe của bạn bị hỏng thì bạn sẽ làm gì. Bạn có thể nghĩ ra bao nhiêu giải pháp. Đâu là giải pháp tối ưu? Đâu là giải pháp mà có khả năng bạn lựa chọn. Khi làm xong bài tập này, bây giờ bạn có thể làm gì để có sự chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp điều đó xảy ra.

– Mỗi ngày hãy nghĩ ra một số giải pháp cho một vấn đề tưởng tượng. Ví như, con bạn đột nhiên không thích đi học, con đường đi làm hôm nay bị cấm… Bạn sẽ giải quyết như thế nào.

– Luôn luôn nghĩ rằng, các vấn đề thường có hơn một giải pháp. Chúng ta càng có sẵn nhiều công cụ thì chúng ta sẽ ngày càng trở thành người giải quyết vấn đề giỏi hơn. Nghĩ ra những phương án giải quyết tốt hơn, thay vì xem chúng đúng hay sai.

– Tự thưởng cho mình khi bạn tìm ra được một giải pháp tuyệt vời cho vấn đề nào đó. Điều đó giúp bạn có thêm động lực để tìm ra các giải pháp cho các vấn đề tiếp theo.

(Theo Hoài Thu – Nguồn: Proguide.vn) Ban biên tập: Ecci Việt Nam

Các câu hỏi thường gặp trong kỹ năng giải quyết vấn đề

1/ Kỹ năng giải quyết vấn đề là gì ?

Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng xử lý, giải quyết những tình huống phát sinh trong cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng xử lý vấn đề bao gồm nhiều kỹ năng khác như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phân tích, khả năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, đàm phán,…

2/ Tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề

Phương pháp giải quyết vấn đề giúp bạn giải quyết khó khăn một cách tốt nhất hoặc ít nhất thì cũng có thể giảm thiểu được các hậu quả mà vấn đề đó gây ra. Không những vậy, ngày nay một số công việc còn đòi hỏi bắt buộc bạn phải có kỹ năng giải quyết vấn đề.

3/ Quy trình giải quyết vấn đề

4/ Ví dụ về kỹ năng giải quyết vấn đề

Đừng nghĩ về những việc quá lớn lao, hãy chỉ nghĩ đến những việc xung quanh bạn hay gặp phải thường ngày. Chỉ cần nhiêu đó thôi thì bạn cũng có khá nhiều ví dụ để cho bản thân tập luyện và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề.

5

/

5

(

1

bình chọn

)