Đề Xuất 3/2023 # Tiểu Luận Bằng Những Hiểu Biết Về Mỹ Học, Anh (Chị) Hãy Phân Tích 3 Tác Phẩm Trong Nước Và 3 Tác Phẩm Nước Ngoài # Top 11 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 3/2023 # Tiểu Luận Bằng Những Hiểu Biết Về Mỹ Học, Anh (Chị) Hãy Phân Tích 3 Tác Phẩm Trong Nước Và 3 Tác Phẩm Nước Ngoài # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tiểu Luận Bằng Những Hiểu Biết Về Mỹ Học, Anh (Chị) Hãy Phân Tích 3 Tác Phẩm Trong Nước Và 3 Tác Phẩm Nước Ngoài mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

TIỂU LUẬN MỸ HỌC Đề tài: Bằng những hiểu biết về mỹ học, anh (chị) hãy phân tích 3 tác phẩm trong nước và 3 tác phẩm nước ngoài. Giảng viên: PGS – TS Đỗ Văn Khang Học viên: Khổng Đỗ Tuyền Lớp Cao học Khóa XII Chuyên ngành Điêu khắc Tác phẩm: KẾT NẠP ĐẢNG Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ Họa sĩ: Nguyễn Sáng Một nhà phê bình viết: “Nguyễn Sáng đã một đời lao động nghệ thuật, đầy nghị lực và sáng tạo. Nguyễn Sáng đã thành công, nhưng thành công này không của riêng anh, là thành công của cả nền hội họa hiện đại Việt Nam, của chúng ta, trong cuộc chuyển mình gay gắt để vươn tới một thẩm mỹ cao đẹp, một thẩm mỹ phải có nguồn từ truyền thống, và trên hành trình sẽ gặp nhiều dòng sông mới mẻ của nhân loại”. Nhắc tới họa sĩ Nguyễn Sáng, giới yêu hội họa thường tôn vinh tài năng của ông qua các tác phẩm sơn mài. Tiêu biểu như các bức tranh: Giặc đốt làng tôi, Thánh gióng, Thiếu nữ và hoa sen, Thổi sáo, Kết nạp Đảng ở Điện Biên. Tranh sơn mài của Nguyễn Sáng mang vẻ đẹp vừa gân guốc vừa lung linh của con người và sự vật. Đối với tranh chân dung về các nghệ sĩ và bạn bè của ông, Nguyễn Sáng thể hiện được thần thái và tính cách của nhân vật qua những đường nét chấm phá. Các nhà phê bình hội họa đánh giá cao các tranh chân dung của Nguyễn Sáng vẽ về nhà văn Nguyễn Tuân, Tô Hoài, họa sĩ Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm. Danh họa Nguyễn Sáng (01/8/1923 – 16/12/1988) kết hợp tư duy và thủ pháp của hội họa hiện đại Tây phương vào nghệ thuật dân gian Việt Nam để tạo ra những cách tân lớn trong tranh sơn dầu và sơn mài. Nguyễn Sáng, quê ở làng Điều Hòa, Chợ Gạo, Tiền Giang. Tốt nghiệp mỹ thuật Gia Định và mỹ thuật Đông Dương Hà Nội, Nguyễn Sáng dành trọn cuộc đời cho hoạt động cách mạng và sáng tác hội họa. Các nhà phê bình mỹ thuật từng đánh giá Nguyễn Sáng là bậc thầy về sơn mài và tranh chân dung. Nguyễn Sáng là một tài năng già dặn, càng vẽ càng đẹp. Ông chỉ có hai bàn tay trắng nhưng đã để lại cho cuộc đời những bức tranh vô giá. Ông luôn được coi là một trong những họa sĩ tiên phong trong sáng tạo ngôn ngữ tạo hình vừa hiện đại vừa mang tính dân tộc. Chính ông đã nói: “Tôi không đi vào nghệ thuật hàn lâm… tôi chỉ đi vào nghệ thuật dân tộc, dân gian và hiện đại”. Ông có cho mình một hướng đi trong nghệ thuật, và suốt cuộc đời đầy bản lĩnh của mình, ông nỗ lực và kiên trì đi tới đích. Hào hứng với thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, rồi dấn thân cùng các nghệ sĩ khác trong cuộc toàn quốc kháng chiến, lên Việt Bắc hoạt động trong Hội Văn nghệ kháng chiến… Nguyễn Sáng không từ nan bất cứ một việc gì, từ việc vẽ tranh cổ động, tranh địch vận và tham gia các triển lãm. Tuy nhiên, ở các triển lãm mỹ thuật toàn quốc những năm 1946 – 1948 – 1951, các tác phẩm sơn dầu về đề tài sản xuất ở nông thôn của ông đều không được đánh giá cao. Chỉ đến năm 1954, triển lãm mỹ thuật toàn quốc được bày tại Nhà hát lớn Hà Nội, bức tranh sơn dầu “Giặc đốt làng tôi” của Nguyễn Sáng mới nổi bật lên, thu hút công chúng bằng một sức hấp dẫn lạ lùng, có lẽ không mấy khi ở một triển lãm mỹ thuật, người ta đứng xúm xít vòng trong vòng ngoài trước một tác phẩm đông đến như vậy. “Giặc đốt làng tôi”, cùng những tác phẩm Nguyễn Sáng vẽ sau đó: “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”, “Thành đồng Tổ quốc”, “Thánh Gióng”, “Hành quân đêm mưa”… đều là những tác phẩm đồ sộ, thành công hơn hết trong số những tác phẩm vẽ về cách mạng của các họa sĩ cùng thời. Tranh của Nguyễn Sáng, dù vẽ gì, cũng cho người xem thấy sức mạnh nội tại rất to lớn của người nghệ sĩ chân chính nơi ông. Hiếm ai có được một ngôn ngữ tạo hình ngắn gọn mà chắc đẹp như Nguyễn Sáng. Mỗi nét bút của ông đều toát lên vẻ sảng khoái, mỗi gam màu đều được tiết giản đến cùng, nhưng lại nhiều sắc độ nên rất gợi không gian, mỗi hình tượng nghệ thuật đều chắc, khỏe, sống động, có cá tính và tư tưởng. Nguyễn Sáng là một họa sĩ hiện đại có tầm trí tuệ của một nhân cách lớn. Suốt đời, ông đã dồn nhiều công sức và thành công ở những đề tài lớn của một thời đại hào hùng. “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” là một tác phẩm thành công vào bậc nhất của Nguyễn Sáng. Ông thực hiện tác phẩm này năm 1963, gần 9 năm sau ngày đánh thắng thực dân Pháp. Là một họa sĩ từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, Nguyễn Sáng đã ghi được rất nhiều tài liệu tại chỗ. Ông có thời gian để lùi lại, ngẫm nghĩ về một đề tài có tính lịch sử như “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”. Trong tranh, là những nhân vật bộ đội được bố cục choán hết nền, được xây dựng theo phương pháp độc lập thể – hình mảng góc cạnh và giản lược, cho người xem cảm giác về sức mạnh và sự hoành tráng. Nguyễn Sáng thực hiện tranh theo bút pháp sơn dầu một cách thoải mái, nhẹ nhàng – mặc dù điều ấy làm rất khó đối với sơn mài. Hình vẽ giản lược đến mức đồ thị hoá những bắt được cái thần của nhân vật, ông đã khéo léo xây dựng nhân vật trung tâm bằng cách phân mảng nhóm từ các nhân vật, tư thế đứng và hành động của những người lính. Các chiến sĩ được dàn theo hàng ngang to đậm chắc khỏe trong tư thế thiêng liêng và sẵn sàng tiến lên phía trước theo ngọn cờ của Đảng. Tác phẩm thấm đẫm chất sử thi, hoành tráng. Giữa giây phút ngắn ngủi của cuộc chiến, v?i m?t vỏch hào treo cờ Đảng tiểu đội chiến sĩ Điện Biên đang làm lễ kết nạp, người lính đầu cuốn băng trắng đang hướng mắt lên lá cờ Đảng với niềm kiêu hãnh và lòng quyết tâm. Đồng đội luôn bên anh, nâng đỡ anh và họ chính là yếu tố làm nên lịch sử của bức tranh trong những thời khắc tuyệt vời nhất của Mỹ thuật với những đóng góp tinh thần sâu sắc. “Kết nạp Đảng ở trận Điện Biên Phủ”- Nguyễn Sáng – 1963 là một điển hình về lối bố cục hình chữ nhật; các nhân vật dàn trải trên bề mặt tranh, không quá chú trọng chiều sâu, phảng phất lối vẽ ước lệ dân gian, Đây là tác phẩm sơn mài toàn bích nhất của Nguyễn Sáng cả về nội dung và hình thức. Tác phẩm: RỬA RAU CẦU AO Họa sĩ: Nguyễn Phan Chánh Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892, là một danh họa trong nghệ thuật tranh lụa. Ông là người đầu tiên mang vinh quang về cho tranh lụa Việt nam. Xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp đào tạo, nhưng Nguyễn Phan Chánh lại thành công và thành danh ở lĩnh vực tranh lụa, một loại hình nghệ thuật mang đậm chất Á Đông, từ chất liệu cho đến cách tạo hình. Ông chỉ tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây: hình họa, đường nét, màu sắc, bố cục, cách xử lý ánh sáng, luật xa gần… qua các giáo sư Victor Tardieu và Joseph Inguimberty như một phương tiện kỹ thuật mang tính phổ quát. Trên nền tảng đó, ông tạo dựng cho mình một phong cách hội họa bác học theo tinh thần của thời đại mới mà vẫn bám sâu gốc rễ văn hóa vào nguồn mạch văn hóa mỹ thuật truyền thống đã phát triển rực rỡ hàng ngàn năm của dân tộc. Sinh ra và lớn lên từ một làng quê nghèo của huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh, thuở bé Nguyễn Phan Chánh học chữ Nho ở quê nhà, rồi vào Huế học Trường Sư phạm Đông Ba. Năm 1922, sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Phan Chánh ở lại Huế dạy học. Và… một thôi thúc lạ đời đã đưa Nguyễn Phan Chánh đến với hội họa. Ông ra Hà Nội thi đỗ vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa I (1925 – 1930) cùng với Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Lê Văn Đệ… Và từ đấy, chúng ta có Nguyễn Phan Chánh – họa sỹ. Những năm cuối của trường, Nguyễn Phan chánh miệt mài tìm tòi, nghiên cứu, thể nghiệm chất liệu lụa và đã tiến một bước dài trong việc cách tân nền hội họa việt Nam với một loạt tác phẩm có giá trị ra đời: Bữa cơm, Em bé cho chim ăn, Lên đồng, Những người hát rong… Đặc biệt, bức Chơi ô ăn quan, trên cái nền lụa trắng ngà chỉ có hai màu nâu, đen, Nguyễn Phan Chánh làm người xem ngỡ ngàng khi vẽ những em bé chơi trò mà không nghịch ngợm, chăm chú và điềm tĩnh, ngây thơ mà tư lự… đã gây tiếng vang lớn trong cuộc triển lãm đấu xảo Paris năm 1931. Từ đó Nguyễn Phan Chánh chuyên sáng tác và nổi tiếng về tranh lụa, dùng lụa để phản ánh hiện thực đã khẳng định được phong cách cùng khuynh hướng nghệ thuật hiện thực dân tộc. Khác với tranh sơn dầu hay sơn mài, bột màu… nghệ sỹ có thể mặc sức thả bút theo dòng xúc cảm đang tuôn trào, nghệ sỹ khi vẽ tranh lụa phải lắng lòng để chuyển tải cảm xúc. Do đó cảm hứng sáng tạo thường diễn ra chậm. Từ những đặc tính của lụa: cách diễn hình và sắc mơ màng, thơ mộng… đòi hỏi nghệ sỹ ngoài đức tính kiên nhẫn, cần cù còn phải có một thái độ nghiêm cẩn, tỷ mỷ, cầu kỳ trong từng nét vẽ, tạo loang mới có thể làm nên một bức tranh lụa đẹp lung linh, mờ ảo, mỏng manh, thanh thoát. Nguyễn Phan Chánh là bậc thầy về lĩnh vực này. Tranh ông nền nã với những gam màu nâu đen, vàng đất, xám nhẹ thấm đẫm chất lụa đã làm nên một phong cách nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh trữ tình, độc đáo. Tài năng Nguyễn Phan Chánh thể hiện ngay trong cách nhìn. Ông nhìn bằng tâm tưởng, thấy được những điều mắt ta không thấy, hoặc thờ ơ bỏ qua: vẻ đẹp đời thường. Đó là những cảnh: Rửa rau cầu ao, Em bé chơi chim, Hai thiếu nữ đội nón thúng quai thao, Thiếu nữ chải tóc, Hái rau muống, Rửa khoai, Tối cho con bú, Đêm trăng lu, Kỳ lưng, Tắm ao… Với bố cục thông thoáng và sự gia công tinh tế của phương Đông hợp hòa cùng sự chính xác, khoa học phương Tây, giữa diễn tả và gợi tả. Nguyễn Phan Chánh đã tẩm tâm hồn chúng ta trong hồn quê dân dã. Tranh ông mang lại sắc thái êm ả, thanh thản, bình dị, trữ tình. Về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, nhà văn Ba Lan Z.Kwecinska nhận xét: Xem tranh, chúng ta có cảm giác như nghệ sỹ đang tâm sự những câu chuyện của đời mình. Ông như muốn chia sẻ những khát vọng, hoài bão và tình yêu cuộc sống, con người. Mỗi bức tranh như một bài thơ. Tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh thật êm dịu, mát mẻ. Phải có một nghị lực phi thường, một sức sống mạnh mẽ, họa sỹ mới giữ được sự bình thản, êm đềm ở một đất nước luôn có chiến tranh. Quả là lời nhận xét đắt giá, tinh tường! Trước khi cảnh Rửa rau cầu ao được thể hiện trên lụa thì trong ký ức của họa sĩ đã hình thành nhiều cảnh người thiếu nữ ngồi rửa rau cầu ao trước nhà ở những làng quê mà ông hay qua lại. Bố cục bức tranh này chỉ là một người thiếu nữ, lại ngồi trên cái cầu bắc nhô ra ngoài bờ ao. Tấm ván cầu ao to rộng, tương xứng với cô ngồi rửa rau một mình, để cô ngồi cho vững vàng. Vì không thấy trước cầu phải có hai cái cọc và đằng sau phải bắc lên bờ ao nên nếu vẽ cô rửa rau quay hẳn mặt ra ngoài thì ván cầu cũng phải ngang ra, như thế là bố cục không tốt. Phải để cái cầu nghiêng một bên ra phía bờ ao, rồi để nghiêng phía sau, vì ở đây người rửa rau ngồi nghiêng nghiêng, chỉ thấy ba phần mặt. Muốn cho cô ngồi được vững vàng trên cầu thì tay bên phải quàng lên đùi để khi chuyển động tay cho dễ rửa rau, tay bên trái tất nhiên phải để vào giữa người. Ngoài cánh tay này còn có đùi và chân bên trái, cũng để ngồi trên cầu cho vững và để cầm rổ ở dưới nước cho chặt. Bàn chân bên phải bị che một phần vì cánh tay thò xuống rửa rau, bàn chân bên trái cũng bị che về khoảng giữa bởi cánh tay bên trái. Như thế rất là hợp cách, vì hai tay giơ ra để cầm rổ và rửa rau sẽ che bớt được hình ảnh bàn chân, lại giữ được mép cầu, làm cho cô rửa rau ngồi rất vững vàng, chắc chắn. Đùi chân trái của cô với chiếc quần gần thẳng xuống, làm cho bức tranh chắc chắn, vuông vắn hơn. Cái đuôi khăn mỏ quạ của cô dong xuống trước người cũng có ích, che được màu áo trắng trước ngực. Rổ rau đặt bên kia cầu lấp được chỗ trống trên cầu, lại có ấn tượng như giữ được cái cầu, tránh để phía cô nghiêng nặng quá. Con dấu trong đó cũng rất hợp vì hình con dấu vuông, nét ngang nét dọc của cái ấn cũng rất có ích, làm chắc chắn thêm ấn tượng tròn tròn của hai cái rổ. Đầu múi cầu phía ngoài ao có nhô ra một đoạn cọc cắm xuống nước, đỡ cho cái cầu khỏi gập ghềnh. Xa xa là phông, có một đường chạy từ đầu gối cô gái chạy lại để phân biệt được giữa ao và nước. Màu sắc tranh rất đơn giản, chỉ có màu đen của quần, của khăn mỏ quạ và màu trắng của áo làm nổi bật thân hình cô gái. Về màu nóng thì màu đen của cầu và hai cái rổ đối lại với màu lạnh là màu áo, màu đen ở bên cánh tay phải làm rộng ra và giảm bớt được màu trắng của cánh tay. Màu xanh của rau là màu lạnh đan xen với màu nóng của cái cầu và cái rổ. Nhìn phía dưới cầu, ta thấy được bóng cầu và hai cái rổ dưới nước, biết là đang rửa rau dưới ao. Màu phông hồng hồng đậm đậm rất hợp với những màu trong tranh và thêm nổi bật được áo trắng của cô gái. Nói về tác phẩm của mình, ông cho biết: “Có những bức tranh sau này không phải vẽ lên lụa mà là trong trí nhớ. Thường tôi đi vẽ sớm dọc theo bờ sông, bờ ngòi. Khi đi qua một cái bến thấy cô thiếu nữ đang rửa rau dưới bến, áo trắng quần đen mơ màng trong sương buổi sáng, trông thật là mơ mộng, thật là đẹp. Nếu là khi đi vẽ thì tôi lấy phác họa bức tranh này vì tôi thường thích các cảnh sương mù mơ màng thơ mộng. Hay một bức tranh khác: nếu các bạn xuống làng Kim Liên, đi quặt ra đường tay phải, phía bên chùa cách chừng vài ba chục thước, về buổi sáng hay buổi chiều có cái ao rộng chừng hai mươi thước. Trước mặt các bạn sẽ hiện ra một bức tranh rửa rau cầu ao rất đẹp, thích hợp với tranh lụa. Trên cầu ao là một cô thiếu nữ rửa rau cách bạn chừng hơn mười thước, mặc áo trắng quần đen, ngồi trước ngõ làng, đằng sau lưng cô là một con đường đi sâu vào trong làng. Xung quanh cô là cây cối um tùm, cả một màu xanh thẳm bao bọc lấy cô nổi bật hình dáng yểu điệu của cô. Bức tranh này rất sống, rất linh động, mãi mãi về sau, thỉnh thoảng vẫn hiện ra trong tôi, đó là một bức tranh thiên tạo”. Tác phẩm: TÁT NƯỚC ĐỒNG CHIÊM Họa sĩ: Trần Văn Cẩn Trần Văn Cẩn (1910- 1994) là một trong những họa sĩ hàng đầu đã mang đến cho nền mỹ thuật Việt Nan hiện đại một phong cách sáng tạo nghệ thuật rất riêng và giàu bản sắc dân tộc. Ông là thành viên của “bộ tứ danh họa” lẫy lừng thời ấy: Nhất Trí (Nguyễn Gia Trí), nhì Vân (Tô Ngọc Vân), tam Lân (Nguyễn Tường Lân), tứ Cẩn (Trần Văn Cẩn). Được đào tạo bài bản, có lớp lang trong một ngôi trường danh tiếng: Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, bên cạnh đó Trần Văn Cẩn còn được nuôi dưỡng bởi một nguồn mạch văn hóa mỹ thuật vốn đã nhiều tầng, nhiều vỉa của các dân tộc. Đó là điều kiện tiên quyết để ông tự ghi tên mình vào lịch sử nghệ thuật nước nhà với tư cách là người nghệ sĩ chân chính. Tốt nghiệp thủ khoa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá VII (1931 – 1936) với bức sơn mài Tiễn anh khoá đi thi hương, nhưng phải đến các tác phẩm như: Em Thúy – sơn dầu; Chợ Tết – lụa, Gội đầu – khắc gỗ, Hai cô gái trước bình phong – lụa, Trần Văn Cẩn mới thực sự nổi danh. Em Thúy là một bức tranh sơn dầu được Trần Văn Cẩn sáng tác năm 1944. Có thể nói đó là đỉnh cao nghệ thuật Trần Văn Cẩn và cũng là một trong những đỉnh cao của nền hội hoạ Việt Nam cho đến bây giờ. Với lối biểu hiện chân thực, nhẹ nhàng, không khoa trương, cường điệu. Trần Văn Cẩn đã níu kéo và lưu giữ người xem bằng vẻ đẹp thơ ngây, trong trắng. Hội hoạ Trần Văn Cẩn vừa hiện đại mới mẻ, giàu liên tưởng lại vừa phát huy được tính dân tộc và đậm đà sắc vị dân gian. Đó là kết quả một cuộc kiếm tìm lâu dài, đúng đắn, sáng tạo và sâu sắc trong hành trình nghệ thuật vô cùng gian nan mà cũng không kém phần hứng khởi của ông. Trong khi quan niệm phương Đông còn cho rằng: phụ nữ gắn liền với phận liễu yếu đào tơ, thân hình mảnh dẻ, Trần Văn Cẩn không thế, ông nhìn ra vẻ đẹp khỏe mạnh, ngồn ngộn sức sống phồn thực của người con gái Việt Nam lao động đang làm công việc “tẩy trần” sau một ngày cực nhọc. Đấy là một cái nhìn mới mẻ của Trần Văn Cẩn. Mái tóc cô gái cũng rất khỏe, xanh, dày, và thẳng. Là một người hiểu biết hội hoạ thấu đáo, nghiêm túc trong lao động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, dù có bận bịu tới đâu Trần Văn Cẩn vẫn dành một khoảng lặng cho nghệ thuật thăng hoa. Và sau 9 năm kháng chiến vô cùng gian khó mà hào hùng, Trần Văn Cẩn ra mắt công chúng thủ đô bằng hai tác phẩm lụa: Con đọc bầm nghe (1954) và Lò đúc lưỡi cày (1955), đã cho thấy một Trần Văn Cẩn khác: mạnh mẽ, đầy cá tính, toát lên niềm vui cuộc sống. Mùa thu đan len – sơn dầu và Tát nước đồng chiêm – sơn mài là hai tác phẩm xuất sắc của Trần Văn Cẩn. Tát nước đồng chiêm thể hiện một quang cảnh rộng lớn: quang cảnh những người nông dân đang lao động trên chính thửa ruộng của mình. Ông vẽ người lao động mà không thấy vẻ lam lũ, nhọc nhăn, ngược lại, toát lên một vẻ đẹp đầm ấm. Tát nước đồng chiêm biểu hiện một vẻ đẹp chân thật, chất phác không kém phần duyên dáng lãng mạn của người nông dân Việt Nam. Và có lẽ Trần Văn Cẩn còn một trong những danh hoạ vẽ nông dân thành công nhất: bố cục chắc vững, các mảng đầy vơi đan xen tài tình, từ dáng điệu được nghiên cứu một cách công phu, rất xao động, nhuần nhuyên sắc độ đậm nhạt mềm mại, dễ chịu hợp lý. Trong niềm đam mê, hứng khởi Trần Văn Cẩn đã vẽ nên một nét mềm lơi lả. Cả một không gian tươi sáng nhộn nhịp như hoà quyện vào như những cô gái quê uyển chuyển trong động tác tát nước gàu dai, những cúi ngửa tự nhiên, bay bướm, những khóm tre lay động những cánh cò dập dờn, những thửa ruộng chạy xa tít phía chân trời chói loà… Ta nghe có cả âm thanh của tiếng nước đổ. Về mặt nào đó, Tát nước đồng chiêm mãi là bài học hàn lâm cho nền mỹ thuật Việt Nam. Tác phẩm: CHIẾC BÈ MEDUSE Họa sĩ: Théodore Géricault Théodore Géricault (26 tháng 9 năm 1791 – 26 tháng 1 năm 1824) là một họa sĩ người Pháp đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới hội họa, được biết đến với tác phẩm Chiếc bè Meduse cùng các bức tranh khác. Mặc dù mất khi còn trẻ, Théodore Géricault vẫn là một trong những nhân vật tiên phong của Chủ nghĩa Lãng mạn. Bức tranh “Chiếc bè Meduse” (Le Radeau de la Médese) của hoạ sĩ Géricault. Xuất phát ý tưởng lúc đầu là có một tin đăng trên báo có một chiếc bè bị gặp bão rất nguy kịch và đoàn người trên bè đang kêu cứu giúp đỡ. Xuất phát từ kịch tính rất căng trên chuyến đò đó và Géricault nắm được yếu tố đó mới hình thành xây dựng một đề tài với một suy nghĩ như cuộc đời của con người, nó cũng như đang nằm ở trên chuyến đò, một chuyến đò đang gặp nguy cơ. Có những trạng thái con người phải phối hợp với nhau để có thể tìm ra lối thoát trước khao khát sinh tồn. Như vậy để xây dựng bức tranh từ tin có thật trên báo này, khi ông chuyển thành tác phẩm nghệ thuật, ông nghĩ đến bố cục này sẽ có hai yếu tố để con người dựa vào yếu tố thứ nhất là cột buồm, nếu mà ta chống đỡ được cái cột buồm không đổ thì cái bè này vẫn có khả năng tồn tại. Yếu tố thứ hai là nếu được một cái tàu ở xa biết đến cứu vớt thì cũng có hy vọng. Như vậy điều hy vọng nằm ở hai yếu tố. Và ông quyết định xây dựng bố cục có hai tam giác. Một cái cột buồm và một nhóm người đưa một người lên cao thành đỉnh tam giác cầm lá cờ trắng vẫy vẫy. Ông tạo ra hai tam giác, hai cái đỉnh, hai cái đỉnh này là hy vọng nhưng nó cũng tạo ra được yếu tố để gây ra cảm giác là con người hơi ảo vọng vì toàn bộ những con người định chống đỡ cột buồm thì đều uể oải mệt mỏi. Nhưng cái số người mà đỡ một người lên để cầu cứu cái tàu ở tít xa thì lại rất hào hứng và m*nh liệt. Và từ những sự chuẩn bị đó, ông đã làm một bức phức thảo rất kỹ và hình của nó sôi nổi sinh động vì nó đã đuoc xây dựng nên từ một ý niệm về bố cục và hiện tại. Từ đó ông mói chuyển sang thể hiện. Về màu sắc, các bảng màu sử trung trong tranh rất nhỏ, từ màu be đế màu đen, đi qua bóng tối và ánh sáng màu nâu sẫm. Điều đó tạo không khí chung cho màu sắc ấm áp hài hòa, nhưng mang lại ấn tượng mạnh mẽ và đau khổ. Màu sắc chủ đạo ở đây là màu tối. Tác phẩm: TRÒ CHUYỆN Họa sĩ: Henri Matisse Henri Matisse (31/12 /1869 – 3/11/1954) là một nghệ sĩ người Pháp, nổi tiếng với khả năng sử dụng màu sắc và chất lỏng cũng như khả năng hội họa tuyệt vời và nguyên sơ. Với tư cách là một họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà làm đồ họa in ấn. Matisse được biết đến như là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế kỉ 20. Ông là nhân vật tiên phong của trường phái dã thú, vào thập niên 1920, ông được coi là một trong những người nâng tầm truyền thống cổ điển trong hội họa Pháp. Tài năng của ông trong việc sử dụng ngôn ngữ màu sắc biểu cảm và khả năng hội họa đặc trưng. Henri Matisse được coi là một trong những nhân vật đi đầu trong nghệ thuật hiện đại. Matisse là người chín chắn nhiều suy ngẫm, đa dạng và cách thể hiện hết sức táo bạo bất ngờ. Ông dung hợp được những rung động mạnh với những chủ định lý tính, tìm tòi gam mầu và bố cục cho mỗi bức tranh, gạt bỏ hẳn những hiệu quả sáng tối, khối vờn, đơn giản hình thể tối đa. Phong cảnh, tĩnh vận chân dung … Mỗi bức tranh của Matisse như là một bản hoà tấu màu sắc, vui tươi, màu sắc tự do, thường gây xúc động cho người xem. Ông bắt đâu bằng vẽ chân dung vợ mình, đãgây tiếng vang lớn, có tên tranh là “Sọc xanh” (Green – Stripe) vì trong tranh ông đãvẽ bóng mờ màu xanh lên hình khuôn mặt vợ mình. Ông còn sử dụng hoa văn Bắc phi vào tranh của mình. Ông còn cắt và dán giấy để tạo nên những tranh màu với hình khối ước lệ. Trong suốt 50 năm trời, ông làm việc không mệt mỏi. Về nghệ thuật d* thú, Matisse thường nói: Tôi muốn một nghệ thuật không làm cho người xem áy náy, lo sợ, mê loạn. Tôi muốn khi người ta mệt nhọc vì làm việc quá sức thì tranh của tôi sẽ đem lại cho người xem sự thích thú và đỡ mệt … Bức tranh “Trò chuyện” của Matisse đãsử dụng màu sắc tương phản mạnh, bố cục giản lược nhưng đầy tinh tế. Được thể hiện thông qua hình dáng chắc khoẻ của người đàn ông, đối lập với hình dáng mềm mại của người phụ nữ tạo nên một ấn tượng mạnh về phong cách biểu đạt của tranh. Ông là người đi đầu cho những ý tưởng không gian mang tính ước lệ mà đầy cảm xúc. Hơn thế nữa, sự sáng tạo trong việc sử dụng lý hiệu quả mầu sắc được Matisse khai thác một cách tinh tế làm cho màu sắc trong tranh có khả năng biểu cảm của màu sắc và ánh sáng theo tâm lý, cảm xúc. §iÒu nµy chøng tá Matisse nghiªn cøu vµ ®· n¾m b¾t được c¸i thÇn cña nghÖ thuËt t¹o h×nh ph­¬ng §”ng trong sù hoµi hoµ cña h×nh vµ s¾c ®­îc bè côc c©n nh¾c tØ mØ. Bøc tranh giµu tÝnh trÝ tuÖ, nh¹y c¶m víi nh÷ng c¶m xóc míi. Tác phẩm: TRÒ CHUYỆN Họa sĩ: Leonard De Vinci Leonard De Vinci sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại Anchiano, Ý – mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp) là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và là một nhà triết học tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên thành phố Vinci, nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze 30 km về phía Tây, gần Empoli, cũng là họ của ông. Ông nổi tiếng với những bức hoạ cổ điển của mình như bức Mona Lisa, bức Bữa ăn tối cuối cùng. Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là sự sáng chế máy bay trực thăng, xe tăng,dù nhảy, sự sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép (double hull), cùng nhiều sáng chế khác, khó có thể liệt kê hết ở đây. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong lúc ông còn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng (civil engineering), quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học, và bút ký. Chúng ta có thể học tập cách thức làm việc của các hoạ sĩ tên tuổi trên thế giới qua những tác phẩm đạt giá trị nghệ thuật cao đã khẳng định phương pháp nghiên cứu cơ bản trong nghệ thuật. Với sự nghiên cứu cơ bản vững chắc, Léonard De Vinci đãđưa được ý tưởng của mình vượt qua hiện thực đạt đến một trường độ nghệ thuật cao. Bức tranh “Bữa ăn cuối cùng” là một trong những tác phẩm kỳ diệu về trí tuệ của con người. Đó là kiểu mẫu về dạng bố cục đối xứng chuẩn mực trong lịch sử nghệ thuật thế giới. Trong bức tranh này người ta học tập được về dạng bố cục kinh điển, bố cục hình hoạ, diễn tả tâm lý nhân vật cho các thế hệ sau học tập. Nội dung của bức tranh về một buổi họp kín, trong bữa ăn vĩnh biệt các tông đồ này Giatô nói trong số các người hiện diện có kẻ phản bộ, bán ông cho cường quyền. Nghe vậy rất nhiều người xôn xao, kinh hoàng và Gui đa kẻ có lòng phản bộ, kinh hoàng lo sợ vì thấy Giatô đã thấu suốt thâm tâm hắn. Hoạ sĩ đãtìm đến một dạng bố cục để có thể rõ nội tâm của họ thông qua nghệ thuật diễn tả chân dung. Ông đãbố cục cho tất cả ngồi một bên bán nhìn ra phía khán giả. Tác giả chọn khoảnh khắc sau khi Giatô nói câu trên làm cho tất cả tông đồ phải xôn xao. Ông bố cục các tuyến người đối xứng qua nhân vật Giatô làm bốn khối, mỗi khối ba người. Bốn khối khối người hai bên Giatô có dạng diện sắc diện khác nhau đặc biệt phong phú. Bối cảnh của bữa ăn ấy là một gian phòng rộng lớn mà cuối cùng gian phòng là ba khung cửa mở làm phần thân trên của Giatô lộ hẳn ra ở ngay khung giữa như có một hào quang tự nhiên. Phép phối cảnh mỗi phát kiến mà tác giả nghiên cứu kỹ càng được áp dụng ở đây một cách tuyệt diệu. Nhìn kỹ bố cục vô cùng phong phú của bốn khối người, nhìn thấy nội tâm biểu lộ trên từng gương mặt, nhìn nghệ thuật diễn tả nếp y phục tình cảm bộc lộ trên từng khuân mặt thể hiện tâm trạng những chiều hướng động tác nếp quần áo làm cho bố cục đối xứng mất đi sự cứng nhắc mà trở nên mềm mại có nhịp điệu. Đây là bức tranh kinh kiển có dạng bố cục đối xứng đẹp nhất trong lịch sử nghệ thuật thế giới.

Phân Tích Tác Phẩm Chiều Xuân

I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ 1.Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời

-Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang (nay là thị xã Ninh Giang), tỉnh Hải Dương ; xuất thân trong một gia đình công chức, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Tuổi thơ của Anh Thơ gắn bó với thôn xóm, làng quê. Anh Thơ chịu ảnh hưởng của gia đình bên ngoại (ông ngoại là cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu) và lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang sôi nổi. Nữ sĩ đến với thơ như tìm con đường tự giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, buồn tẻ và khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đương thời. Anh Thơ có thơ đăng báo từ năm 1937, được giải khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1939. Bà có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gọi được không khí và nhịp sống của đồng quê Bắc Bộ. Anh Thơ là nữ sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bà từng là uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II). Năm 2001, Anh Thơ được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật ; năm 2007, được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

-Bài thơ Chiều xuân được rút từ tập thơ đầu tay của Anh Thơ : tập Bức tranh quê (1941). Đúng như tên gọi Bức tranh quê, tập thơ là những bức tranh bằng thơ vẽ cảnh thôn quê thời đó, mỗi bài thường có ba khổ thơ, mười hai câu, mỗi câu tám chữ, có kết cấu khá giống nhau nhưng các chi tiết được quan sát đều hết sức sắc sảo, không trùng lặp. Tập thơ bắt đầu bằng các cảnh mùa xuân rồi lần lượt mùa hạ, mùa thu, mùa đông với cả các bài thơ tết. Bài Chiều xuân được in ở đầu tập Bức tranh quê.

2.Tri thức văn hoá

Đọc hồi kí Từ bến sông Thương (1986), người đọc mới biết Anh Thơ viết Bức tranh quê phải giấu bố, viết vụng trộm vì nếu bố bắt được là phải ăn đòn. Ngày đó, các cụ quan niệm con gái mà làm thơ dễ bị ế chồng, chỉ tổ viết thư cho giai.

Thế mà Anh Thơ vẫn lén lút làm thơ, lén lút đưa thơ đi dự thi và có giải thưởng từ năm 1939 của Tự lực văn. đoàn, bước vào làng thơ từ đó.

II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

Chọn chiều xuân mưa bụi giăng giăng là Anh Thơ muốn có dịp nói đến đặc trưng của thời tiết nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Nông thôn Việt Nam thời đó còn yên tĩnh, có phần ngưng đọng. Trong chiều xuân mưa lạnh, nơi bến sông, trên con đê rìa làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Ba đoạn thơ là ba cảnh chiều xuân mà mỗi cảnh đều là kết quả của sự quan sát đặc biệt tinh tế. Cảnh đầu tiên :

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng, Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi; Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Có thể đặt tên cho cảnh này là bến đò vắng chiều xuân, một khung cảnh dường như không âm thanh, không màu sắc tươi sáng : mưa bụi “đổ” rất êm, bến vắng, con đò “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”, một quán nước không bóng người, chỉ có tiếng rơi rất nhỏ, rất nhẹ của những cánh hoa xoan tím nhưng nó cũng lẫn với màu mưa xuân và chìm trong cái vắng lặng của trời chiều.

Cảnh hai là con đường đê chiều xuân : Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ, Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ; Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió, Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Vẫn làn mưa bụi ấy bay giăng giăng nhưng đã có sự hoạt động : thỉnh thoảng có đàn sáo “sà xuống mổ vu vơ”, mấy cánh bướm rập rờn “trôi trước gió”, có trâu bò thong thả “cúi ăn mưa”, gặm “cỏ non tràn biếc cỏ”. Đoạn thơ có nhiều nét thơ mộng, tươi mát chứng tỏ người viết có biệt tài quan sát, lại có hồn thơ nên cảnh là thực mà có chút gì đó kì ảo : “cỏ non tràn biếc cỏ”, “Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” ; “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”. Cái cách tả cảnh như Anh Thơ đâu dễ có. Phải là người gắn bó sâu nặng với cảnh quê, phải có cái nhìn phát hiện được những điều mới mẻ, kì thú từ cảnh vật, con người bình thường của cuộc sống nơi thôn dã mới tạo nên cái lung linh, sinh động của cảm xúc như vậy. Đó là điều vô cùng đáng quý ở Anh Thơ.

Cảnh thứ ba vẫn là cảnh thường thấy ở thôn quê : cảnh ngoài cánh đồng lúa đang mùa cào cỏ. Khổ thơ này rất dễ bằng phẳng nếu thiếu đi những sự đột biến. Đó là sự “vụt bay ra” của lũ cò con và cái “giật mình” ngơ ngác của “cô nàng yếm thắm” :

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng, Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra, Làm giật mình một cô nàng yếm thắm Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

So với cảnh đầu của bài thơ, không gian ở khổ thơ này hoạt động hơn, ấm áp hơn, có bóng dáng của con người nên nó tràn trề sức sống : “lúa xanh rờn và ướt lặng” hứa hẹn một mùa vàng chứ không phải “chòm xoan hoa tím rụng”, lũ cò con nghịch ngợm “chốc chốc vụt bay ra” làm náo động sự tĩnh lặng bình yên, làm “giật mình một cô nàng yếm thắm”. Sự xuất hiện của con người lao động, một thôn nữ trẻ trung yếm thắm đang “cúi cuốc cào cỏ” cho ruộng lúa đang “sắp ra hoa” đem lại cảm giác ấm áp, điểm xuyết nét son tươi rói cho bức tranh chiều xuân nhạt nhoà ở hai cảnh trước đó bừng sáng. Thực ra đó là những cảnh bình thường ở làng quê xưa, quen thuộc hằng ngày, ai cũng thấy, nhưng qua mắt nhìn của Anh Thơ bỗng nhiên như mới lạ, đầy kì thú. Có lẽ sống ở quê từ tấm bé, những cảnh sắc quê hương thấm vào thi sĩ từ tuổi ấu thơ nên Anh Thơ mới diễn đạt cảnh quê một cách tinh tế và độc đáo như vậy. Nhà thơ cảm nhận được chất thơ, cái đẹp trong cuộc sống bình dị hằng ngày.

Chiều xuân cũng như nhiều bài thơ khác trong Bức tranh quê không đặt vấn đề gì to tát, hệ trọng của cuộc sống, của thời đại. Bài thơ ghi nhận một sở thích của nhà thơ : viết về những điều trông thấy quanh mình. Chiều xuân hay ở sự quan sát cảnh quê và đương nhiên cũng ở cái tình của người viết với quê hương.

XEM THÊM PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TƯƠNG TƯ – NGỮ VĂN 11 TẠI ĐÂY

Từ Hiểu Biết Về Hai Tác Giả Nam Cao, Nguyễn Tuân Và Các Tác Phẩm Của Họ

Từ hiểu biết về hai tác giả Nam Cao, Nguyễn Tuân và các tác phẩm của họ

Nói về tính độc đáo của phong cách sáng tác văn học, có ý kiên cho rằng: “Nghệ thuật là tĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình”. , hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

BÀI LÀM

Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao điều rất khó định nghĩa hoặc định nghĩa một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn, bạn sẽ trả lời thế nào có câu hỏi: “Nghệ thuật là gì”?

“Nghệ thuật là cái đẹp” – câu trả lời đúng nhưng không đủ. Nghệ thuật có khi là những đường nét man dại thô sơ trên những dụng cụ thời cổ đại. Có khi cách tạo ra một nhân vật làm cho mọi người đều khiếp sợ. Vậy có nên chăng khi chúng ta chấp nhận quan điểm “nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Và cái tôi của nghệ thuật đó biểu hiện như thế nào? Có thể đó là cái tôi duy cảm, cũng có thể là cái tôi mang tính công dân, nhưng trước hết đó phải là cái tôi đầy cá tính mang sắc thái riêng. Trong văn học cũng thế, nói về tính độc đáo trong phong cách sáng tác có ý kiến cho rằng “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm cùa mình, ý kiến trên rất bao quát nhưng cũng đưa ra được một khía cạnh mà nghệ thuật đòi hỏi: phong cách. Trong văn đàn Việt Nam, nói về phong cách, có lẽ không ai có thể quên được Nam Cao và Nguyễn Tuân, hai tác giả văn xuôi cừ khôi.

Nhà vật lí học nổi tiếng thế giới Einstein từng nói: “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng được hưởng hơn ai hết sự kính trọng của con người”. Nhà nghệ sĩ chính là người sáng tạo ra nghệ thuật, sáng tạo “cái đẹp để cứu nhân loại”. Nghệ thuật là một khái niệm rất trừu tượng nhưng nhiệm vụ mà nghệ thuật phải hoàn thành thật to lớn. Bởi thế người ta đưa ra một ý kiến thật đúng: “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Thật vậy, tác động vào tâm hồn con người không phải là chuyện dễ, để đột phá vào thế giới thật riêng tư, nhà văn cần dùng một phương tiện cũng phải rất riêng: phong cách độc đáo. Họa sĩ Ruskin đã cho “nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. Tuy quan điểm đó không hoàn toàn đúng, nhưng theo ý trên ta được cùng là sự mô phỏng nên để tránh nhàm chán, người nghệ sĩ phải thêm vào tác phẩm sự sáng tạo để lại dấu ấn của riêng mình trên từng trang viết. Đấy chính là phong cách, đặc điểm quan trọng nhất để nhận ra nhà văn qua tác phẩm của họ. Truyện ngắn cũng là một lĩnh vực khá lớn của văn học. Truyện ngắn Việi Nam bắt đầu khởi sắc từ những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn. Nhưng đến Nam Cao thì loại hình văn học này mới đạt được đình cao của nó. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, văn đàn Việt Nam không thiếu tên những tác giả có tài như Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan… Nhưng hai phong cách nổi bật nhất, theo tôi có lẽ là Nam Cao và Nguyễn Tuân. Không có một người nào đã từng theo dõi văn học nước nhà mà không biết đến dáng đi ngật ngưỡng trong cơn say và gương mặt lằn ngang lằn dọc của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên mà Nam Cao viết năm 1941. Phải nói rằng ở đây là một truyện ngắn thật xuất sắc trong đó Nam Cao đã bộc lộ phong cách của mình rất rõ rệt. Trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Tác phẩm Chí Phèo ra đời khá muộn khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố à Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan đã đứng sừng sững trên văn đàn Việt Nam. Vậy mà Chí Phèo không những không bị chìm đi mà còn có phần lấn át hai tác phẩm ra đời trước đó. Tại sao vậy? Nguyên nhân chủ yếu là vì tác phẩm đã có nét mới lại rất lạ và rất riêng. Ông Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét rằng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ tác phẩm của Nam Cao, người ta nhận thấy rằng đây là hình ảnh thê thảm nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Không biết Nam Cao đã mất bao nhiêu thời gian để quan sát, tìm hiểu và tạo nên tiếng chửi của Chí Phèo. Tiếng chửi của anh khó chịu lắm, nó thông thốc, đập vào tai người đọc, nó như thách thức cả cuộc đời… Chí Phèo chửi mọi người mà nhưng không chửi ai, không còn biết tại sao mình lại chửi. Chua xót hơn, anh ta lại chửi cả “đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn”, tiếng chửi của Chí Phèo là một sự phủ nhận mạnh mẽ: phủ nhận xã hội, phủ nhận tình cảm thiêng liêng của gia đình mà anh ta không có được, rồi tiến tới phủ nhận cả bản thân mình… Ngòi bút của Nam Cao mang tính khái quát rất cao, qua tiếng chửi của Chí Phèo ta như thấy thấp thoáng dáng dấp của Bình Chức, Năm Thọ, những con người chịu một số phận tương tự như Chí Phèo, bị bần cùng hóa rồi côn đồ hóa và tha hóa.

Chí Phèo là một nhân vật phải nói là rất lạ với những nhân vật của những tác giả kia. Cùng ở điểm xuất phát là người nông dân chất phác hiền lành như chị Dậu, anh Pha, nhưng nếu hai người này vẫn giữ được phẩm chất của con người thì Chí Phèo lại đánh mất cả nhân hình lẫn nhân tính.

Lời kể chuyện hấp dẫn cũng là một nét độc đáo trong phong cách của Nam Cao. Kết cấu của truyện Chí Phèo là một chuỗi móc xích của những cơn say liên tiếp, chồng lên nhau: “Bữa đầu về làng đã thấy hắn ngồi ở quán rượu” Và cứ thế câu chuyện diễn tiến trong cơn say triền miên của Chí Phèo. Trong không khí sặc sụa mùi rượu đó, anh ta trở thành tên côn đồ tay sai cho Bá Kiến Rồi gặp Thị Nở, lúc này cơn say lắng xuống nhường chỗ cho cơn say tình yêu. Thế rồi sau khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo đã bừng tỉnh trong ý thức để đi đến hành động giết Bá Kiến. Nhưng thật ra mà nói, đến phút cuối đời Chí Phèo vẫn đắm chìm trong cơn say.

Truyện ngắn Chí Phèo chứng tỏ bút lực mạnh mẽ cũng như phong cách của Nam Cao khá hoàn chỉnh. Có lẽ không ai ngoài Nam Cao có thể tạo cho Chí Phèo một dáng đi ngật ngưỡng, tiếng chửi chối tai mọi người và đôi mắt đỏ ngầu trừng trừng nhìn vào hiện thực để rồi chết ngộp trong hiện thực. Xã hội làng Vũ Đại đen tối không còn lối thoát, cái lò gạch bỏ không là điểm bắt đầu cuộc đời Chí Phèo rồi cũng là có thể là cái nôi đứa con của anh. Rồi chuyện : sẽ xảy ra? Quá khứ lập lại một lần nữa ư? Đó chính là chỗ bế tắc cùa văn học hiện thực phê phán. Nhưng dù sao ta không thể phủ nhận giá trị của truyện Chi Phèo vì qua đó phong cách của Nam Cao đã tỏa sáng, thể hiện được tình thương với cuộc đời.

Cùng thời với Nam Cao nhưng Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn. Tập truyện Vang bóng một thời đã đưa tên tuổi ông vào vị trí rất cao trong văn đàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là người nặng lòng hoài cổ, ông lưu luvến và mong vớt vát được những nét đẹp xưa để ấp ủ tâm hồn trong xã hội đương thời. Cũng thi kì lạ vì Nguyễn Tuân hoàn thành tập truyện mang tính cổ xửa ấy ông chưa đầy ba mươi tuổi. Thế mà Vang bóng một thời có giọng văn của một cụ già ngồi ôn lại những năm tháng êm đẹp đã quan trong cuộc đời mình. Chữ người tử tù là một truyện ngắn khá tiêu biểu trong chuỗi những hoài niệm nét đẹp xưa. Hẳn là ta không bao giờ quên được cái ngông ngạo của Huấn Cao, một người tù trước gọng cùm và quan lại. Đó là nét đẹp tỏa sáng nhất man? đậm phong cách của nhà chí sĩ và trong đó cũng mang dấu ấn của phong cách Nguyễn Tuân, thử hỏi có ai nén được sự xúc động khi tìm lại được mái đầu cao ngạo, kiên cường của một nhà nho – hình ảnh trong quá khứ vừa mới đi qua thôi mà đã tưởng như xa lắm. Thạch Lam đã từng nhận xét: Viết về đề tài xưa là một việc tốn nhiều công sức. Phải thực sự yêu mến và muốn giữ lại những vẻ đẹp đã thì mới đủ sức làm sống lại cả một thời xưa cũ. Đúng thế, chuyện xảy ra rồi nhà văn chỉ ghi lại. Thế nhưng nếu không thương tiếc, không muốn sống lại những ngày xưa vang bóng thì không thể tìm thây được những nét đẹp cổ phảng phất trên cặp mày, vẻ quắc thước toát ra từ đôi mắt sâu thăm thẳm bàn tay tài hoa của người tử tù.

Huân Cao là người viết chữ đẹp nổi tiếng, những đích thực là một nhà nghệ sĩ. Huân Cao biết rõ ràng chữ nghĩa là tinh hoa của thánh hiền, ông coi thường những kẻ khoa tay múa may vì tiền. Chính đức tính này của ông làm cho viên quản ngục ngần ngại mãi, có người tù trong tay nhưng không biết làm cách nào xin được vài con chữ tài hoa. Người ta thường nói văn tức là người. Do vậy hình ảnh của Huân Cảo, ta thấy thoáng hiện một Nguyễn Tuân với vầng tràn cao rộng, với đôi mắt tinh anh, cũng ngẩng cao đầu, chàng đem văn của mình ra làm món hàng mua bán… Người tử từ của Nguyễn Tuân hiện lên trong tác phẩm giống như một anh hùng thời cổ, ông đi trong buổi chiều vang vang tiếng trống thu không, tiếng loa xa xa như vọng về từ quá khứ, không gian tịch nịch và cổ kính. Người tù ấy là một nhà nho tài hoa, vậy mà bất khuất chẳng kém một nghĩa quân trong chiến trận. Lời nói khẳng khái của ông đáp lại viên quản ngục nghe như đầy thách thức: “Ta muốn là nhà ngươi đừng bao giờ bước chân vào đây!”. Đọc đến câu nói của Huân Cao, ta nghe như trong mạch máu ói lên tinh thần của ông cha ngày trước bất khuất, rạch ròi. Chính điều này đã tạo cho Vang bóng một thời một giọng ván khác lạ. Nguyễn Tuân là một nhà văn thuộc trường phái lãng mạng nhưng tác phẩm của ông khác xa so với truyện ngắn của Thạch Lam.

Huấn Cao có tính ngông thật nhưng không phải vì vậy mà ông không thấy được tấm lòng của viên quản ngục. Thử hỏi làm sao người như Huấn Cao có thể làm ngơ ưước một mong ước rất thanh cao của viên quản ngục. Những dòng chữ vuông vắn đầy cá tính của một người tù có nhân cách vượt trội hơn nhiều so với thững kẻ xử án. Khung cảnh ngoạn mục và cảm động nhất truyện xảy ra trong nhà ngục ẩm ướt. Một người tù gò viết trên mảnh lụa bạch, người thơ lại và viên quản ngục yên lặng, thành kính, ngọn đuốc bừng bừng mù mịt khói chứng tiến ba mái đầu chụm lại nhau. Thực sự Nguyễn Tuân đã tạo nên những hình ảnh nức lòng người đọc, gian phòng giam mù mịt tối tăm ấy đang tỏa ra ánh sáng của nhân cách con người.

Người tử tù quên rằng sáng mai mình sẽ bị hành hình, viên quản ngục quên rằng đây là một tù nhân của mình, họ gặp nhau trong tâm hồn thanh cao. Viên quản ngục hướng lên cái đẹp với một mảnh lòng trong sáng, người tử tù cúi xuống nâng tâm hồn ông ta lên bằng tài hoa, nhân cách và khí phách của bản thân mình. Trong Chữ người tử tù nói riêng và Vang bóng một thời nói chung. Nguyễn Tuân đã thể hiện cái tôi duy mĩ, yêu mến và thương tiếc cái đẹp. Tình cảm đó và lối ngông ngạo khác người đã tạo nên một nghệ sĩ Nguyễn Tuân gần như xa lạ với hiện thời nhưng rất gần với quá khứ. Nguyễn Tuân là cầu nối đẹp xưa với ngày nay.

Trong cùng một thời kì văn học nhưng Nam Cao và Nguyễn Tuân là phong cách rất đặc biệt. Điểm giống nhau của họ là cùng nhìn thấy và bất mãn trước hiện thực xã hội, nhưng cách phản ánh vào tác phẩm lại hoàn toàn khirt nhau. Theo tôn chỉ của văn học phê phán Nam Cao đem vào tác phẩm một hiện thực làm mọi người giật mình có thể có khả năng người nông dẫn sẽ bị côn đồ hóa và trở nên thê thảm như Chí Phèo. Tác phẩm của Nam Cao như hồi chuông báo động mọi người xem lại xã hội mình đang sống. Đó là hồi chuông nảy lòng nhân đạo, nó hướng về con người, hướng về sự cứu vớt con người. Tác phẩm của Nam Cao có thể được đánh giá bằng cầu văn của chính ông: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lứa đôi” Đúng vậy, quan điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là nghệ thuật vi nhàn sinh.

Xưa nay người la vẫn thường chỉ trích quan niệm nghệ thuật vì nghệ thuật nhưng có lẽ rằng quan điểm đó rất đúng xét trên khía cạnh tích cực của nó. Người ta nói rằng cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại vậy thì nghệ thuật hướng người tới cái đẹp, tới chân thiện mĩ của cuộc sống, đó chẳng phải là phục vụ con người sao? Truyện ngắn của Nguyễn Tuân về những ngày xưa cũ đem cho ta cái đẹp kiêu hãnh của cha ông. Với cái tôi duy mĩ của mình, ông đã nên một thế giới có màu sắc khác lạ, vừa như quen thuộc vừa như xa vời. Nói cách khác, sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng Tháng Tám có “lánh đục về trong”, đi tìm cái đẹp quá khứ để khuây khỏa nỗi buồn hiện Dù sao đi nữa Nam Cao và Nguyễn Tuân vẫn là những phong cách tỏa sáng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam trước nãm 1945.

Một câu hỏi đặt ra là phong cách của một người có thể thay đổi không và thay đổi như thế nào? Theo tôi sự thay đổi là một quy luật của cuộc sống, không có vật gì luôn tồn tại như lúc ban đầu. Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 thành công, xã hội đổi khác. Cái không khí xã hội tạo nên những bức xúc cho sáng tác của các nhà văn nay không còn nữa. Phản ánh luận cho rằng những gì thuộc về tâm tư tình cảm của con người đều có thể gọi là hiện thực. Đứng trước sự biển thuyền lớn lao như thế, các nhà văn lại làm ghềnh thách dữ thì mới cảm thấy “khoái chí”. Đó chính là chất tài tử trong văn Nguyễn Tuân. Từ cái ngông ngạo của người hay chữ như Huân Cao chuyển sang cái nghệ thuật của người coi sóng nước sông Đà như ao nhà mình. Đó đây trong tùy bút Sông Đà, ta bắt gặp những mảnh thiên nhiên trong sáng: Một cánh rừng phủ xanh màu xuân mới, sắc mây êm trôi trên sông Đà… Cái u uẩn ngày xưa không còn nữa nhưng nhà văn Nguyễn Tuân vẫn đứng đó với vầng trán cao, mái tóc bạc phơ bay ngược chiều gió với tâm tưởng ngôn ngữ và cuộc sống ngồn ngộn đến mức làm người đọc kinh ngạc.

“Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Câu nói ấy thật đúng trong nghệ thuật – lĩnh vực của cái độc đáo. Người sáng tác tác phẩm văn học là người đem đến cho con người cái đẹp và sự thanh cao, xin được gọi họ là những người tạo ra nghệ thuật. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Tuân đã làm nên nét đẹp trong văn học nước ta bằng những phong cách của riêng mình. Trong tác phẩm của họ, ta như lần đầu tiên bắt gặp những gì chợt ẩn, chợt hiện, mới lạ với những gì ta đã biết. Phong cách ấy mãi là những vầng sáng đẹp tạo nên nghệ thuật bất tử.

Truyện ngắn là một lĩnh vực thú vị của văn học. Nó ghi lại sự việc xảy ra trong thời gian và không gian xác định nhưng không phải vì vậy mà giá trị của nó bị thu hẹp. Những nhân vật Chí Phèo, Huấn Cao, Hoàng, ông lái đò… Là những hình tượng nghệ thuật đặc sắc tạo bởi năng lực sáng tạo của nhà văn P.Pavlenko nói rằng: “Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật vậy”. Thế mà ta biết rằng một con ong phải bay một đoạn đường sau lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu lên năm vạn thứ hoa để làm nên một trăm gam mật (Theo “tờ hoa” của Nguyễn Tuân). Khó khăn biết bao khi người ta muốn vươn đến nghệ thuật thật sự. Thế nhưng mọi người vẫn không ngừng đi tìm cái đẹp, phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Phải chăng quá trình ấy cũng đầy gian nan không kém gì lao động của các nhà khoa học. Nhà văn Nga Macxim Goorki cho rằng “văn học là nhân học”, vậy thì vượt gian lao để tìm đến sự độc đáo hoàn thiện của ngòi bút, đến “nhân học” chính là sứ mạng cao quý của những người cầm bút.

Lý Xuân Quyên

(PTTH Chuyên Lê Hồng Phong – TP. Hồ Chí Minh)

Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Hướng dẫn

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Truyện ngắn ” Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân được viết trong khoảng thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp (1945),ông đã lấy chất liệu của cuộc sống để tái hiện hình ảnh thê thảm của nhân dân trong cảnh bần cùng. Qua đó khắc họa rõ nét các nhân vật. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm là hình ảnh một người mẹ già, nghèo với nhiều lo toan,tính toán để kiếm ăn qua ngày:Bà xuất hiện với dáng đi lọng khọng,vừa đi vừa lẩm nhẩm, tính toán. Nhưng là người mẹ nhân từ, hiền hậu.

Tràng dẫn người “vợ nhặt” về giữa ngày đói khiến cho mẹ anh ban đầu hết sức ngạc nhiên,bất ngờ: Bà lão ngạc nhiên vì có người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Bà nghĩ mãi không phải con cái Đục, tự nhiên bà thấy mắt mình hình như nhoèn đi thì phải. Bà hết ngạc nhiên thì lại băn khoăn không biết người đàn bà kia là ai? Sao lại chào mình bằng u?

Khi Tràng giải thích rõ với bà:” Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…”. Nói đến đây thì bà hiểu, bà cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán,xót thương,ngậm ngùi,vừa lo lắng, xen lẫn cả mừng vui,nhưng có lẽ vui thì ít mà buồn tủi,xót xa,lo lắng thì nhiều. Bà nhìn người đàn bà một lần nữa. Bà là một người hiểu biết, có sự cảm thông,bao dung, độ lượng, bà hiểu con mình, bà hiểu hoàn cảnh của Thị. Bà biết rằng người ta có gặp bước khó khăn,đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, rồi thằng con mình mới có vợ được. Bà mừng vui vì bổn phận bà làm mẹ đã không lo nổi cho con,nay đã có được vợ nhưng bà cũng lo lắng không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Bà tủi thân tủi phận vì người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm ra những mong sinh con đẻ cái sau này còn mình thì…

Bà không chỉ là người mẹ già, nghèo, hiểu con mà còn có tấm lòng nhân từ, cưu mang, đùm bọc, lấy niềm vui, hạnh phúc của con làm lẽ sống của mình. Bà sống vì con cái. Bà thổi lên ngọn lửa, niềm tin trong hoàn cảnh đói khát tăm tối ấy.

Bà nói với người dâu mới:” Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng “. Chỉ mấy từ giản dị: ” u cũng mừng lòng ” làm cho Thị như được an ủi, Tràng thì thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Bà còn an ủi: ” Nhà ta thì nghèo con ạ “, rồi bà đưa ra triết lý:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời “. Điểm ấn tượng của người mẹ già này đối với người đọc là bà đã tạo ra một không khí vui vẻ cho gia đình. Bà thổi lên ngọn lửa ấm áp trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối. Người ta thường nói: ” trẻ tương lai – già hoài niệm ” ” người mẹ già gần đất xa trời này khi có nàng dâu mới lại toàn nói chuyện vui vẻ, bàn tính chuyện làm ăn ngày mai: sửa nhà, nuôi gà,… Bà tạo ra một không khí vui vẻ như muốn làm át đi không khí thê thảm của nạn đói khủng khiếp; những tiếng khóc hờ hững của những gia đình có người chết. Bà tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để con cái vượt qua nạn đó, hướng đến một ngày mai tươi đẹp. Đặc biệt là bữa cơm mời nàng dâu mới, thật đạm bạc chỉ có một nồi cháo loãng, ít rau chuối thái rối, mỗi người hai lưng đã hết nhẵn, nhưng bà vẫn vui vẻ đon đả mời hai con niêu cháo cám: ” chè khoán đây ngon đáo để cơ. ” Ngay cả khi Thị bưng bát cháo cám lên mắt tối sầm lại thì mẹ già ấy vẫn đon đả tươi cười: Cám đấy mày ạ! Hì. Đúng là một người mẹ đã thắp sáng niềm tin cho các con vượt qua đói khổ, đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Kim Lân là niềm tin là sự lạc quan yêu đời của người nông dân nói chung.

Nhà văn Kim Lân đã đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh khốn cùng của các nhân vật, trái tim nhà văn đã thực sự đập cùng nhịp đập với trái tim người mẹ già, nghèo để nói lên những nỗi niềm, thể hiện lẽ sống vì tình thương của mình.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tiểu Luận Bằng Những Hiểu Biết Về Mỹ Học, Anh (Chị) Hãy Phân Tích 3 Tác Phẩm Trong Nước Và 3 Tác Phẩm Nước Ngoài trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!