Cập nhật nội dung chi tiết về Soạn Bài: Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm – Ngữ Văn 10 Tập 1 mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả trong SGK Ngữ Văn 10 Tập 1).
2. Tác phẩm
Nhàn là một bài thơ Nôm nằm trong Bạch Vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ do người sau đặt.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu 2 câu thơ đầu có những điểm đáng chú ý là:
Số từ trong câu thơ là “một…một…một…”: cho thấy tác giả là một con người biết chủ động trong công việc.
Nhịp thơ 2/2/3 tạo nên sự thảnh thơi và nhàn nhã
Chữ “ai” ở câu thơ thứ hai dùng để nói với người: cho dù người ta có “vui thú nào” thì ông vẫn luôn vui vẻ với cuộc sống thôn dã của mình
* Qua 2 câu thơ đầu, cho ta thấy hoàn cảnh sống và tâm trạng của tác giả ở nơi thôn quê dân dã. Ông luôn cảm thấy vui vẻ với cuộc sống “tự cung tự cấp” của mình. Đồng thời, hai câu thơ đầu cũng cho thấy sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang tàn, ông vẫn cứ thuần hậu và nguyên thủy.
Câu 2:
* Nơi “vắng vẻ” và chốn “lao xao”:
Nơi “vắng vẻ”: là nơi không có người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Đó là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và là nơi thảnh thơi của tâm hồn.
Chốn “lao xao”: là chốn quan trường, là những nơi sang trọng, đầy những thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt.
* Chúng ta thấy quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn” là: tác giả tự nhận mình là người “dại”, chấp nhận mọi điều tiếng xấu của người đời để tìm về những nơi “vắng vẻ”. Còn những người “khôn” họ đến chốn “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quá trải đời, ông đã chứng kiến sự bon chen và trói buộc của vòng danh lợi chật hẹp. Tác giả tự nhận mình là “dại”, nhưng thực chất ông lại là “khôn”, điều đó cũng giống như những con người cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ mãi bon chen, nghĩ rằng mình là “khôn” nhưng thực chất lại là “dại”.
* Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo nên sự so sánh giữa hai triết lí sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.
Câu 3:
* Các sản vật và khung cảnh trong hai câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý là:
Thức ăn, sản vật dân dã: măng trúc, giá đỗ
Cảnh sinh hoạt: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác
Câu 4:
* Hai câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là một bậc thức giả uyên thâm, là người đã từng vào ra chốn quan trường, đã quá hiểu được cái quy luật biến dịch của cuộc đời, hiểu được rằng danh lợi chỉ là phù du. Do đó, ông đã phủi tay với vòng danh lợi, tìm đến sự tĩnh lặng cho tâm hồn và cùng hòa hợp với thiên nhiên. Có thể nói, đây là cái nhìn của một nhân cách lớn, của một con người có trí tuệ lớn.
Câu 5:
* Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp với thiên nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao.
* Quan niệm sống của ông là quan niệm hoàn toàn tích cực. Với ông, sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống nhàn tản của bản thân mà sống nhàn là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên. Cuộc sống như vậy mặc dù sẽ vất vả nhưng nó đem đến cho ông sự thoải mái trong tâm hồn, giữ được nhân cách thanh cao trong đời mình.
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Soạn Bài Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm )
SOẠN BÀI NHÀN ( NGUYỄN BỈNH KHIÊM )
I – GỢI DẪN
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ Trạng nguyên. Làm quan được tám năm, ông dâng sớ xin triều đình chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, mở trường dạy học.
Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình Quốc công sấm kí,…
Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với thiên nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng những bài thơ có ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích trong tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi là một trường hợp tiêu biểu.
Bài thơ thể hiện cái thú nhàn dật, ung dung tự tại của một trí sĩ. Cần đọc chậm, rõ, thể hiện khí khái và giọng tự trào.
II – KIẾN THỨC CƠ BẢN
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, giai đoạn có nhiều biến cố phức tạp, nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên, nhân dân lầm than đói khổ trong cảnh “nồi da nấu thịt”. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ phê phán những thói đời bạc bẽo, ham danh lợi mà bỏ đi tình nghĩa, là một biểu hiện thanh cao của một tấm lòng thiết tha với dân tộc.
“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về đề tài “tịch cư” trong văn học trung đại. Bài thơ vẽ nên một bức tranh sinh hoạt của người ẩn sĩ với thú vui dân dã. Khi về ở ẩn, Trạng Trình đã tỏ ra rất bằng lòng với lựa chọn của mình :
Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ ? An nhàn ngã thị địa trung tiên !
(Ngụ hứng)
Là tiên khách bởi được thoải mái cả về thân xác và tinh thần :
Nội đắc tâm thân lạc, Ngoại vô hình dịch luỵ. (Bên trong được thú vui của tâm, của thân, Bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho hình xác)
(Cảm hứng)
Thú vui nhàn dật, tránh xa khỏi vòng danh lợi là một đề tài khá quen thuộc của văn học thế kỉ XVI. Nhiều tác giả ca ngợi cuộc sống miền thôn dã với thú vui điền viên sơn thuỷ :
Yêu thay miền thôn tịch ; Yêu thay miền thôn tịch ! Cư xử dầu lòng ; Ngao du mặc thích. Khéo chiều người mến cảnh sơn hà ; Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú)
Cuộc sống tự nhiên, thanh tao miền tịch cư đã giúp các nhà nho tránh được những phiền phức chốn quan trường. Cuộc sống nhàn tịch miền thôn dã được tác giả miêu tả ở hai câu đề và hai câu thực :
– Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào – Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Cách dùng số từ, danh từ, từ “thơ thẩn” trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu đề gợi nên dáng vẻ ung dung trong công việc lao động hàng ngày và thể hiện những nhu cầu khiêm tốn của cuộc sống ẩn dật. Cuộc sống thật gần gũi với tự nhiên, đơn giản mà thanh sạch, vô tư, dường như không mảy may vướng bận những lo toan của cuộc sống bon chen nơi đông đúc. Cuộc sống đơn giản, với những sinh hoạt đạm bạc, mùa nào thức ấy, không phải lo lắng gì nhiều. Đủ cả bốn mùa, mỗi mùa một sản vật, vừa thể hiện thời gian quanh năm, vừa thể hiện được mối quan hệ gần gũi, hoà nhập cùng thiên nhiên. Một trong những đặc điểm nổi bật của lối sống ẩn dật là hoà nhập cùng thiên nhiên. Những nhu cầu giản dị của người ẩn sĩ đều được thiên nhiên thoả mãn một cách dễ dàng. Những sinh hoạt của người ẩn sĩ thật giản dị và thanh cao, giống như một tiên khách chốn trần gian. Bằng lòng với cuộc sống ẩn dật, người ẩn sĩ tự hào với sự lựa chọn của chính mình :
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao.
Câu thực được tạo nên bởi một lối đối rất chỉnh giữa quan niệm “dại” và “khôn”. Một lối nói chứa hàm ý mỉa mai, thể hiện sự kiên định của nhà thơ với lối sống nhàn dật. Tự nhận “ta dại” là một sự ngông ngạo của người ở ẩn, đó là cái dại của bậc đại trí trong thiên hạ. Cái dại của những người như Mạnh Hạo Nhiên, Đào Tiềm, Nguyễn Trãi :
Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ông Mạnh Hạo Nhiên ; Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào Bành Trạch.
(Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú)
Họ tự hào với cuộc sống ấy bởi đó là cuộc sống thanh cao. Và họ kiên định với cách lựa chọn ấy :
Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ ; Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú)
Những bậc đại trí ấy tìm đến “vắng vẻ”, trước tiên không phải là trốn tránh trách nhiệm với cuộc đời, mà họ đều đến nơi thôn tịch khi họ đã không thể cứu nước cứu dân, họ chọn cuộc sống giữa thiên nhiên cây cỏ khi họ phải lựa chọn giữa lối sống luồn cúi và cuộc sống thanh sạch mà nghèo cực. Dù luôn nói đến cái thảnh thơi của một người nhàn tâm thản trí nhưng thực ra trong lòng họ vẫn mang những day dứt về cuộc đời. Về ở ẩn, họ dễ tránh được “chốn lao xao”, bởi theo nhà thơ, là nơi mọi người phải đua chen trong vòng danh lợi :
Thành thị vốn đua tranh giành giật
(Thơ Nôm, bài 19)
Không nơi nào không có đua chen, tranh giành : “ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi” (Bài bi kí quán Trung Tân). Ở câu thơ kết, một lần nữa tác giả khẳng định quan điểm sống của mình, đó là một cách thể hiện thái độ với cuộc đời của một nhà Nho :
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Phú quý ở đời chỉ là chuyện phù du. Câu thơ cuối có cách ngắt nhịp khác hẳn các câu thơ còn lại. Thủng thẳng nói về cái thú nhàn dật rồi buông ra một câu kết như thế, nhà thơ đã thể hiện một cách dứt khoát thái độ của mình đối với chuyện công danh phú quý. Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn nhưng khi được vời lại sẵn sàng ra giúp vua, giúp nước bởi tấm lòng luôn “cuồn cuộn nước triều dâng” khiến ông không thể yên tâm hưởng thanh nhàn nơi thông reo bốn mùa. Để rồi ông đã không thoát được cái án oan khiên thảm khốc. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một thế thời khác đã kiên định lối sống ở ẩn. Trong một chừng mực nào đó, cách lựa chọn của Trạng Trình chưa hẳn đã là đúng. Song vì thế thời, để giữ gìn phẩm giá thanh sạch của mình, việc lựa chọn cách sống ấy cũng là một điều đáng để chúng ta trân trọng họ – những nhà nho chân chính.
Bài thơ nói về cái chí. Trước hiện thực xã hội rối ren thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cách sống nhàn dật, đó chính là một cách thể hiện thái độ của nhà thơ đối với cuộc đời.
III – LIÊN HỆ
Đọc một số bài thơ khác của Nguyễn Bỉnh Khiêm để so sánh và thấy được sự đa dạng trong phong cách thơ của ông :
Hễ của tự nhiên có ít nhiều Một kho tạo hoá cũng chia đều(1) Hương đầy tiệc khách, hoa khi rụng Hứng dẫy vườn xuân, chim thuở kêu(2) Án cũ giở xem ba quyển sách Song thưa ngơi nghỉ một con lều Non xanh nước biếc xưa là hẹn Ngẫm nghĩ đòi khi chớ(3) bấy nhiêu.
(Thơ Nôm – bài 37)
(1) Cả câu ý nói mọi người đều có thể hưởng thụ thú vui của tạo hoá như nhau, không ai có thể chiếm lấy làm của riêng.
(2) Dẫy : tiếng cổ, nghĩa là đầy dẫy. Cả câu ý nói : tiếng chim kêu ở vườn xuân đem đến hứng thú tràn đầy cho tác giả.
(3) Chớ : tiếng trợ từ, giúp cho nghĩa thêm mạnh : đã có bao lần nhà thơ nuôi chí ẩn dật, nhớ lời hẹn ước với non xanh nước biếc.
Thức dậy, tay còn sách chửa buông Khách nào thăm hỏi sự phao tuông(1) Bếp trà hâm đã, xôi măng trúc(2) Nương cỏ cày thôi, vãi hạt muồng(3) Cửa vắng ngựa xe không quýt ríu(4) Cơm no tôm cá, kẻo thèm thuồng Sơn tăng trêu khách xui người bấy Sơ nguyệt kình kình(5) đã gióng chuông.
(Thơ Nôm – bài 38)
(1) Phao tuông : (tiếng cổ) nghĩa là : bày đặt ra (phao) chuyện này chuyện kia một cách bừa bãi (tuông), không đúng sự thực.
(2) Cả câu ý nói : ở bếp hâm xong trà thì nấu măng trúc.
(3) Cả câu ý nói : nương cỏ cày xong rồi thì vãi hạt muồng.
(4) Quýt ríu : (tiếng cổ) chỉ sự bận rộn, bề bộn.
(5) Sơ nguyệt : lúc chập tối, khi mặt trăng mới ló lên ; kình kình : điệp từ mô phỏng tiếng chuông gióng, tác giả vận dụng cả âm lẫn nghĩa.
Làm người có dại mới nên khôn Chớ dại ngây si(1) chớ có khôn Khôn được ích mình, đừng rẻ dại(2) Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn(3).
(Thơ Nôm – bài 94)
(1) Dại ngây si : dại quá độ.
(2) Rẻ dại : khinh rẻ người dại.
(3) Đây là bài thơ độc vận với chỉ một chữ “khôn”.
Soạn Bài: Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm
– Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất:
+ Số từ “một” được lặp lại ba lần: tư thế sẵn sàng lao động.
– Nhịp điệu hai câu thơ đầu:
+ Câu 1 nhịp thơ ngắt 2/2/3
+ Câu 2 nhịp thơ ngắt: 4/3
– Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.
Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Nơi “vắng vẻ: là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái tâm hồn.
– Chốn “lao xao” là chốn đô hội, cửa quyền, nơi con người bon chen danh lợi.
– Quan điểm của tác giả về dại – khôn:
+ Chữ “dại” tác giả tự vận vào mình hóa ra là “không dại” vì thời thế khi những kẻ lộng quyền xấu xa hoành hành thì việc rút lui khỏi chốn quan quyền là điều đúng đắn.
+ Chữ “khôn” tác giả dùng cho “người ta” lại là “không khôn”: xã hội lọa lạc, rối ren con sẽ đánh mất nhân phẩm, một mực bon chen, giành giật để đạt danh vọng, trở thành những kẻ xấu như bao kẻ xấu kia.
– Nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4:
Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6:
– Giá trị nghệ thuật:
+ Hình ảnh dung dị, mộc mạc, chân tình.
Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu nằm dưới gốc cây hòe để thức tỉnh, nhận ra chân lý cuộc sống: Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.
– Tác giả khẳng định cái tồn tại vĩnh hằng là thiên nhiên và nhân cách con người. Phủ nhân danh lợi, vật chất đều là hư vô.
Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: không màng phú quý. Ông xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên cây cỏ. Đó là lối sống không vướng bận, không bon chen.
Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn:
Gợi ý:
a. Mở bài: giới thiệu vầ tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và tác phẩm Nhàn.
b. Thân bài:
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
– Phân tích bài thơ:
1. Hai dòng thơ đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.
– “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi.
– Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị.
2. Hai dòng thơ thực: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.
– “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.
+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .
+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.
+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.
+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gán bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch.
3. Hai dòng thơ luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.
4. Hai dòng thơ cuối: chân lý về cuộc sống.
– Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.
– Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.
c. Kết bài: Bài thơ thể hiện được quan niệm “nhàn” của nhà thơ và tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Soạn Bài Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Lớp 10
Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lớp 10 I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả – Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585). – Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. – Bản thân ông là một người rất tài giỏi và liêm khiết thanh cao, ông có quan niệm cao quý đúng đắn về việc chốn quan trường và nơi làng quê. – Ông học rộng tài cao đỗ đạt ra làm quan sau đó vì chán ghét chốn quan trường nhiều mưu thâm kế hiểm cho nên ông đã trở về quê sông cuộc …
I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả
– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585).
– Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ.
– Bản thân ông là một người rất tài giỏi và liêm khiết thanh cao, ông có quan niệm cao quý đúng đắn về việc chốn quan trường và nơi làng quê.
– Ông học rộng tài cao đỗ đạt ra làm quan sau đó vì chán ghét chốn quan trường nhiều mưu thâm kế hiểm cho nên ông đã trở về quê sông cuộc sống thanh đạm mà hiền lành.
– Tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Bạch Vân Am thi tập, bạch âm quốc ngữ thi tập.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Sau một thời gian làm quan trong triều chứng kiến nhiều cảnh đấu đá gang đua hãm hại lẫn nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn là một người ngay thẳng làm việc thiện cho đời cho nên ông nhanh chóng nhận ra chốn quan trường không phải là chỗ để dành cho mình vì thế ông đã cáo quan về quê ở ẩn. Tại đây ông đã sáng tác bài thơ Nhàn.
b. Nhan đề:
– nhàn vừa là một tính từ chỉ trạng thái rảnh rỗi, không có việc gì làm của con người.
– Đặt trong hoàn cảnh của tác giả thì nhàn có nghĩa là không phải suy nghĩ về việc triều chính, không phải sợ hãi trước những âm mưu của bọn tham quan, không phải chứng kiến những cảnh trướng tai gai mắt. Về với ruộng vườn nhà thơ nhàn về cả mặt thể chất lẫn tinh thần.
c. Thể thơ: thất ngôn bát cú.
d. Bố cục: 4 phần:
– Phần 1: hai câu đầu: cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.
– Phần 2: hai câu tiếp: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.
– Phần 3:hai câu tiếp: đồ ăn thức uống nơi thôn dã.
– Phần 4: còn lại: rút ra chân lý về cuộc sống.
– Đó là những công cụ lao động cần thiết cho người sống ở làng quê.
– “thơ thẩn dầu ai” nghĩa là nhà thơ cứ sống nơi thôn quê bình dị ấy mặc cho ai vui thú ở nơi nào.
– Thơ thẩn gợi tả sự nhẹ đầu khi mà nhà thơ không cần phải căng thẳng để chống lại những tên tham quan ô lại nữa.
2. Quan niệm về lẽ dại khôn ở đời.
– Nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập “dại – khôn” “vắng vẻ – lao xao”.
– Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.
3. Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.
– Giá ở đây có thể là giá đỗ cũng có thể là giá lạnh của mùa đông.
4. Nhà thơ uống rượu và nhận ra chân lý ở đời
– Về quê nhà thơ không quên người bạn rượu tri kỉ vì đối với người xưa rượu là một thứ để bầu bạn kể cả lúc vui lẫn lúc buồn.
– Rượu đến gốc cây là sẽ nhấp.
– Trong hơi men nồng nàn cùng sự bình yên của làng quê nhà thơ nhận ra phú quý quả thật chỉ là một giấc chiêm bao. Nó cũng sẽ mau chóng tan thành mây khói.
III. Tổng kết
– Bài thơ thể hiện được quan niệm của nhà thơ về cuộc đời, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình an, đạm bạc nhưng lại rất thanh cao. Nghệ thuật thơ đối lập, nói ngược đã góp phần làm nên thành công trong việc chuyển tải nội dung của bài thơ. Từ khóa tìm kiếm:
Soan bai Nhan cua Nguyen Binh Khiem lop 10
Bạn đang đọc nội dung bài viết Soạn Bài: Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm – Ngữ Văn 10 Tập 1 trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!