Cập nhật nội dung chi tiết về So Sánh Hình Ảnh Người Lính Cách Mạng Qua Hai Bài Thơ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ Đồng chí và Tiểu đội xe không kính
Thí sinh cần nêu được 3 ý sau:
Ý 1: Giới thiệu chung
– Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa rời tay súng. Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.
– Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, bài thơ “Tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính.
– Về luận đề: hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ lịch sử.
Ý 2: Phân tích lịch sử
1. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp chung:
– Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí:
+ Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận” (Đồng chí) và “Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước” (Tiểu đội xe không kính).
+ Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện sự gắn bó đồng chí
– Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
+ Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.
+ Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “chờ giặc tới”, “ung dung nhìn thẳng”.
– Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ “miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
2. Những điểm riêng khác nhau
– Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí thiềng liêng hòa quyện với tình giao tiếp khi lý tưởng chiến đấu đãa rực sáng trong tâm hồn.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!”
– Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể hiện người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy cảm, có tính cách riêng mang chất “lính”đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu nước cháy bỏng.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Ý 3: Đánh giá chung
– Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội cụ Hồ” thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ nhưng nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tại nên những hình tượng làm xúc động lòng người.
– Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động
Hình Ảnh Người Lính Qua Hai Bài Thơ Đồng Chí Và Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Đề Bài: Em hãy viết bài văn nếu cảm nhận của em về Hình Ảnh Người Lính Qua Hai Bài Thơ Đồng Chí Và Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc thực sự quan trọng, hình ảnh về anh bộ đội cụ hồ trong những năm đầu chống thực dân Pháp và chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thời kỳ đánh Mỹ đã được phản ánh khá là rõ net cùng với những vẻ đẹp khác nhau và nó được thể hiện rõ qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào năm 1948, được in trong tập đầu súng trăng treo. Hình ảnh về người nông dân cầm súng đã được miêu tả ở trong bài thơ cùng với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thực sự bay bổng.
Đều là những người nông dân quanh năm lam lũ vơi ruộng đồng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện giã từ quê hương đi chiến đấu , trong họ rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản rằng chiến đấu là bảo vệ cho chính mình và quê hương mái ấm của mình.
Sự gian nan vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định được phẩm chất cao đẹp của những người áo vải. Từ bốn phương trời, không hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
Họ quyết tâm dứt khoát ra đi là thế nhưng cũng không khỏi nhớ tới quê hương, gia đinh. Nỗi nhớ của các chiến sĩ thực sự đơn giản và cụ thể biết bao nhiêu : “ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh… ” đều là nơi gắn liền với nơi chôn rau cắt rốn chỗ miền quê nghèo.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đó là hình ảnh đơn sơ mộc mạc nhưng đồng thời là lời ca về tình đồng chí thiêng liêng giữa con người đang kề vai sát cánh cùng nhau bảo vệ tổ quốc, mang lại cuộc sống thanh bình cho toàn dân tộc.
Nếu như bài đồng chí nói về hình ảnh của người lính cụ Hồ ở trong kháng chiến chống Pháp thì bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe ở trên đường Trường sơn vô cùng dung cảm, có sức chịu đựng gian khổ nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan .
Đối đầu với máy bay của giặc Mĩ thì các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động nhưng nhờ vào niềm tin tất thắng đấu tranh giải phóng Miền nam, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Mỗi sự gian nan vất vả đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh hết sức chân thực, giản dị nhưng lại để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Các chiến sĩ lái xe chấp nhận những khó khăn đó với thái độ vui vẻ, phớt lờ, có pha chút cá tính, ngang tàng.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, chất hiện thực cũng nghiệp ngã và bay bổng cùng hòa quyện với nhau :
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy đều hướng vào Miền nam thân yêu bởi trong xe luôn có một trái tim đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm. Hình ảnh trái tim ở trong câu thơ là hình ảnh hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa nhằm tôn vinh tầm vóc của những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao lên giá trị về nội dung cả nghệ thuật của bài thơ.
Bài thơ tiểu đội xe không kính là bài thơ mang đậm chất trữ tình cách mạng, tác giả đã khắc họa hình ảnh người lính bằng chính tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc.
Họ là những người tự nguyện dấn thân, vui vẻ trong gian khổ. Với ngôn ngữ giản dị giàu sức gợi cảm sáng tạo, nhịp thơ phong khoáng đã làm nên một cái cái, cái đẹp cho bài thơ.
Hai bài thơ của nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh và ở thời điểm khác nhau nhưng lại cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực sâu sắc nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong việc chiến tranh giữ nước.
Please follow and like us:
Comments
Hình Tượng Anh Bộ Đội Cụ Hồ Qua Bài Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính
Chiến tranh đã qua đi, nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng lại trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Đứng ở thời điểm hôm nay, ngoảnh lại nhìn quá khứ, một chặng đường đầy gian lao và hy sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc, mỗi chúng ta không khỏi bâng khuông đến tự hào về bao thế hệ cha anh, những con nguời đã làm nên lịch sử chói ngời bằng những chiến công vĩ đại.
Thực dân Pháp xâm lược, đất nước chìm trong máu lửa đau thương. Bác Hồ, sau ba mươi năm buôn ba hải ngoại ở nước ngoài đề tìm đường cứu nước, Bác đã đem lại ánh sáng và niềm tin cho dân tộc. Thực dân Pháp, kẻ thù không đội trời chung, Bác ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – 1946. Hưởng ứng lời Bác gọi, lời của non sông, các anh chị lớp trước, lớp sau trùng trùng ra trận:
” Những buổi vui sao cả nước lên đường Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục Xóm dưới làng trên con trai con gái Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau” .
Đúng là một đất nước Việt Nam anh hùng mà ” Mẹ anh hùng đẻ con Thánh Gióng – mong con mau lớn để tòng quân” thì mới ánh lên những vần thơ kiêu hãnh và bức chân dung về người cầm súng trùng điệp nối nhau ” Suất bốn nghìn năm không nghỉ” diệu kì đến như vậy:
” Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
Họ ra trận, chiến đấu nhưng thiếu tư thế hiên ngang, đàng hoàng và không hăng hái như anh vệ quốc trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ miêu tả hai nhân vật ” Anh” và ” tôi” thành một đôi, nhưng là ” đôi người xa lạ”. Từ ” xa lạ” trở thành ” quen nhau”. ” những anh” ” những tôi ” nhoà đi sau những khẩu súng, những mái đầu, những tấm chắn, và những đôi tri kỉ , để rồi cuối cùng nổi lên, chỉ đọng lại, chỉ kết tinh trong một đồng chí mà thôi.
Vẻ đẹp ấn tượng nhất về người lính chống Pháp, trước hết là nguồn gốc xuất thân: người lính nông dân rất thực trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan.Từ cuộc đời thực họ bước vào thơ ca, trong cái môi trường bình dị thường thấy ở các làng quê còn những đói nghèo lam lũ:
” Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hôm qua là nông dân, hôm nay đã là chiến sỹ:
” Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Tác giả tả thực về cuộc sống quân ngũ của người lính gian lao thiếu thốn. Từ cuộc sống thực bước vào trang thơ và toả sáng một vẻ đẹp mới – vẻ đẹp truyền thống thời đại. Đó là vẻ đẹp của tình đồng chí, tình đồng đội gắn bó với tình giai cấp của người lính:
Đánh giặc giữ nước, vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc, nhưng những người lính hôm nay ra đi đánh giặc lại đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ, in rõ dấu ấn của thời đại. Tình đồng chí thiêng liêng mà cội nguồn sâu xa là tình giai cấp gắn bó:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ xa lạ đến quen nhau, đó là sợi dây tình cảm giai cấp đã nối kết họ lại với nhau và tình giai cấp đã phát triển nâng lên thành tình đồng chí khi lí tưởng đánh giặc giữ nước rực sáng trong tâm hồn họ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Chữ Đồng chí đứng riêng thành một câu thơ như nhấn mạnh cô đúc, nén lại bao thiêng liêng cao cả trong cái tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là từ giai cấp mà lên, từ lí tưởng mà có. Đồng chí là soi vào nhau, anh hiểu tôi, hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh. Đồng chí là đồng cảm sâu sắc cùng nhau chia sẻ.
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh”.
Và “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Bài thơ phản ánh đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của tình đồng chí là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người chiến sỹ mà nơi phát ra vừng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội đồng chí hoà quyện với tình giai cấp. Hình ảnh ” Đầu súng trăng treo” khép lại bài thơ, nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là nhiệm vụ trách nhiệm của người chiến sỹ. Đảng đã trao cho anh nhiệm vụ thiêng liêng đó. Vì tổ quốc, vì nhân dân, anh lên đường cầm súng chiến đấu giết giặc. Anh vệ quốc quân, anh bộ đội cụ Hồ đắp nổi bằng những vần thơ tươi thắm nhất, sôi nổi nhất. Bởi anh là Tổ quốc, là Hôm nay và Mai sau. Anh là tiên phong giữa những đoàn quân trùng trùng ra trận, giữa chiến trường lửa đạn. Anh là con người đẹp nhất của thời đại, của thơ ca. Anh mang trong mình lí tưởng cao đẹp: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là ước mơ của ngàn đời ông cha để lại:
“Vì độc lập, tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị con người Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”
Hình tượng anh vệ quốc được nâng lên thành một tầng cao mới khi anh lên đường, khẩu súng trên vai, thì tình yêu mẹ, yêu quê hương lại thiêng liêng hơn bao giờ hết. Anh vệ quốc quân có một nhận thức hết sức sâu sắc:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng Ôi Tổ quốc nếu cầu ta chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông”.
Tình yêu quê hương, đất nước đã biến thành máu thịt, anh sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho độc lập tự do. Tình yêu ấy trở thành lẽ sống đẹp đẽ của cả một thế hệ con người Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”.
Trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc, anh vệ quốc xuất hiện từ những ngày đầu của cuộc chiến đấu cho đến ngày “Toàn thắng ắt về ta”, đó là những chàng Thạch Sanh của thời đại Hồ Chí Minh đánh giặc bằng tất cả những gì vốn có: Từ mũi chông tre, tầm vông, giáo mác, đến chiếc xe không kính, bếp Hoàng Cầm…Hình ảnh anh giải phóng quân chống Mỹ kế thừa nét đẹp của anh vệ quốc chống Pháp: giản dị, mộc mạc, mà anh hùng dũng cảm. Vẻ đẹp ngời sáng của chàng trai đánh Mỹ là tư thế hiên ngang coi thường gian nguy. Thái độ ung dung bình thản trong mọi thiếu thốn.
Anh bộ đội cụ Hồ trong thơ Phạm Tiến Duật hiện lên thật độc đáo, ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính” viết -1969, đây là thời kỳ gian khổ và hy sinh trên chiến trường Nam Bộ. Bài thơ mang đậm chất lính rất đậm đà, đó là những anh lính trẻ của thời chống Mỹ có học thức, có bản lĩnh chiến đấu, có cuộc sống nội tâm, ta gặp trong bài những câu thơ ngang tàn thanh thản:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” Không có kính, ừ thì có bụi Không có kính, ừ thì ứơt áo”
Người chiến sỹ lái xe phải can trường lắm, tự tin và có sức mạnh thì mới có được thái độ ngạo nghễ coi thường gian lao đến như vậy. Người đọc thú vị những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch đầy sức trẻ của những chàng trai ” Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”:
” Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Câu thơ ngồn ngộn chất sống hiện thực ở chiến trường. Mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và tiếng cười ha ha sảng khoái. Đằng sau dòng chữ bông đùa này là bản lĩnh chiến đấu vững vàng của họ. Hình ảnh đối lập giữa ” Như người già” và tiếng cười “ha ha ” là sự hồn nhiên yêu đời, trẻ trung đến lạ lùng. Hình ảnh ” Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, đó là tình đồng đội của những con người chiến thắng. ” Chung bắt đũa nghĩa là gia đình đấy”, trong phút giây ngắn ngủi ta càng tháy sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội và tình đồng chí đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “ Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”.
Nét đẹp bao trùm nổi bật của người lính chiến lái xe trong bài là sự ung dung thanh thản tuyệt vời trong một tư thế hiên ngang bất chấp mọi khó khăn thử thách:
“Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Những câu thơ như bật ra từ trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Xe không kính mà tâm thế vẫn ung dung bình thản, câu thơ ” thấy sao trời và đột ngột cánh chim” vừa rất thực lại thoáng chút nghệ sỹ. Cả đoạn thơ như ào ra từ cuộc sống thực để nổi lên gương mặt tinh thần cao đẹp của người chiến sỹ lái xe:
“Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe xây xước Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Không có gì cả nhưng lại có tất cả. Trái tim là sức mạnh của người lính, đó là sức mạnh của con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim đã trở thành nhãn tự của bài thơ, cô đúc ý thơ toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại dư vang sâu lắng trong lòng người đọc. Bài thơ hay vì thi sỹ mang một trái tim người lính.
Hình ảnh anh giải phóng quân đánh Mỹ vừa kế thừa vẻ đẹp phẩm chất của anh vệ q ốc quân chống Pháp, vừa phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và anh hùng thành vẻ đẹp truyền thống cách mạng Việt Nam hội tụ hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nét đẹp ngờisáng của người lính chiến lái xe trong bài thơ là hiện thân của anh giải phóng quân thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc hiện lên bằng những phẩm chất riêng mới: Có học thức, trẻ trung hơn, vui nhộn, hóm hỉnh pha chút ngang tàn, bất chấp gian khổ, coi thường gian nguy.
Tình yêu Tổ quốc tiếp sức nâng đỡ anh lên, tình yêu đem đến cho người chiến sỹ một niềm tin sáng chói giúp cho anh có đầy đủ sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh anh mang tầm vóc mới, tầm vóc vũ trụ:
“Mái chèo một chiếc xuồng con Mà sông nước dậy sống cồn đại dương”
Hình tượng người lính dù là thời kì chống Pháp hay chống Mỹ, dù có thể có những nét khác nhau nào đó nhưng họ đều mang những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ từ nhân dân mà ra, từ xa lạ mà lên, tình đồng chí đồng đội hoà quyện với tình giai cấp khi lý tưởng chiến đấu rực sáng trong tâm hồn. Đất nước trong những năm tháng chống Pháp, chống Mỹ hiện lên thật đẹp, thật hào hùng đồng thời cùng hài hoà với sự phát triển của hình tượng anh bộ đội cụ Hồ từ anh vệ quốc quân đến anh giải phóng quân qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài 10. Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
1 CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ CÁC EM HỌC SINH VỀ DỰ TIẾT HỌC NÀY.GVBM: VƯƠNG BÍCH THUỶ.
1. Đọc thuộc lòng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. 2.Nêu những nghệ thuật được sử dụng trong bài. 3. Qua bài thơ này, em có cảm nhận gì về hình ảnh anh bộ đội thời kì kháng chiến chống Pháp ?Giáo viên soạn giảng: Vương Bích ThuỷBài thơvề tiểu đội xe không kínhPhạm Tiến DuậtTiết 44456Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa Ai chưa đến đó như chưa rõ mình.I. GIỚI THIỆU CHUNG 1. Đọc- tìm hiểu chú thích:
TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNHGiáo viên soạn giảng: Vương Bích Thuỷ
Những chiếc xe từ trong bom rơiĐã về đây họp thành tiểu độiGặp bạn bè suốt dọc đường đi tớiBắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấyVõng mắc chông chênh đường xe chạyLại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính ,rồi xe không có đèn ,Không có mui xe ,thùng xe có xước,Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Không có kính không phải vì xe không có kínhBom giật bom rung kính vỡ đi rồiUng dung buống lái ta ngồiNhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timThấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa như ùa vào buồng lái.Không có kính, ừ thì có bụiBụi phun tóc trắng như người giàChưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha haKhông có kính, ừ thì ướt áoMưa tuôn, mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữaMưa ngừng, gió lùa khô mau thôiI. GIỚI THIỆU CHUNG 1. Đọc- tìm hiểu chú thích: 2. Tác giả:
TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Hãy nêu những hiểu biết của em về tác giả Phạm Tiến Duật ?– Quê : huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.– Phong cách: sôi nổi, hồn nhiên, sâu sắc.– Tác phẩm chính: + Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970) + Ở hai đầu núi (thơ, 1981) + Thơ một chặng đường (tuyển tập, 1994)Nhà thơ Phạm Tiến Duật(1941 – 2007) Tôi phải thêm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, để báo trước cho mọi người biết rằng là tôi viết thơ, chứ không phải một khúc văn xuôi. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là cách đưa chất liệu văn xuôi vào thơ, những câu thơ “đặc” văn xuôi được kết hợp lại trong một cảm hứng chung. Lời tác giả nói về tác phẩm TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNHI. GIỚI THIỆU CHUNG : 1. Đọc- tìm hiểu chú thích: 2. Tác giả: 3. Tác phẩm
TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Hãy nêu những hiểu biết của em về tác phẩm ? Hoàn cảnh ra đời – Ra đời năm 1969. – Được giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. – Được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa. Thể thơ : Giọng điệu : Ý nghĩa nhan đề: – Nhan đề dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ độc đáo của nó. – Làm nổi bật hình ảnh : Những chiếc xe không kính – Hai chữ bài thơ cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả , tác giả muốn nói về chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm.
Tự do, bốn câu một khổLinh hoạt, ít vầnII. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Hình ảnh những chiếc xe không kinh:
TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH– Xe không kính vì bom giật, bom rung Khẳng định chiến tranh ngày càng ác liệt– Không kính, không đèn, không có mui, thùng xe xước. Liên tiếp một loạt các từ phủ định diễn tả độc đáo chân thực những chiếc xe trên đường ra trận. * Những chiếc xe không kính hiện lên thực tới mức trần trụi, khơi gợi sự khốc liệt của chiến tranh trong những năm chống Mỹ cam go khốc liệt.TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
– Tác giả để cho những người chiến sĩ lái xe xuất hiện trong hoàn cảnh đặc biệt. – Họ vẫn ở tư thế ung dung, hiên ngang, oai hùng mặc dù trải qua muôn vàn thiếu thốn, gian khổ. – Nhìn: – Thấy:đất, trời, nhìn thẳnggió vào xoa mắt đắngcon đường chạy thẳng vào timsao trời đột ngột cánh chim Đó là cái nhìn đậm chất lãng mạn, chỉ có ở những con người can đảm, vượt lên trên những thử thách khốc liệt của cuộc sống chiến trường.TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNHII. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN1. Hình ảnh những chiếc xe không kinh:2. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe:
TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
– “Gió vào xoa mắt đắng” – “Bụi phun tóc trắng” – “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” – Người lính vẫn “Cười ha ha” Thể hiện tinh thần dũng cảm, lạc quan, sôi nổi, vui tươi; sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
– Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. – Bếp Hoàng Cầm dựng giữa trời. – Chung bát đũa : gia đình – Mắc võng chông chênh Tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó.TIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH – Điệp từ không được nhắc lại hai lần làm tăng thêm tính khốc liệt của chiến tranh. – Đối lập :
-Trái tim người lính nồng nàn ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam (Hoán dụ)
IV- LUYỆN TẬP so sánh về hình ảnh người lính trong “bài thơ tiểu đội xe không kính” ( Phạm Tiến Duật) với hình ảnh người chiến sĩ trong bài thơ ” Đồng chí” ( Chính Hữu)– Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, khoẻ khoắnGIỐNG NHAUVượt qua khó khănTình đồng đội keo sơn, gắn bó.Ý chí chiến đấu vì tinh thần lạc quan.KHÁC NHAU
Những người nông dân mặc áo lính giản dị, chân thành, chất phác.Những chiến sĩ trẻ hồn nhiên, hóm hỉnh, tươi tắn, trẻ trung.Bài thơ về tiểu đội xe không kínhĐồng chíTIẾT 44:BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNHHướng dẫn về nhà
TRƯỜNG THCS TÂN BÌNH
2013
Kớnh cho quý v chỳc s?c kh?e quý th?y cụ v? d? ti?t h?c ny!Năm học: 2013-2014
Bạn đang đọc nội dung bài viết So Sánh Hình Ảnh Người Lính Cách Mạng Qua Hai Bài Thơ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!