Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Tích Tính Dân Tộc Trong 8 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Việt Bắc mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
B. Dàn ý chi tiết
a. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc (nhà thơ độc đáo, tài hoa, một nhà thơ mang tính chất trữ tình chính trị; bài thơ Việt Bắc là một bài thơ hay tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.)
Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: tính dân tộc trong đoạn thơ trên của bài thơ Việt Bắc.
b. Thân bài
Khái quát chung
Hoàn cảnh sáng tác: sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết. Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội ⇒ Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc.
Kết cấu: theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca
Vị trí đoạn trích: nằm ở phần đầu đoạn thơ.
Giải thích và trình bày nội dung về “tính dân tộc” trong thơ ca
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc.
Tính dân tộc trong văn học được thể hiện ở phương diện nội dung là sự phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc. Còn ở phương diện nghệ thuật là việc sử dụng các thể thơ dân tộc, lối nói truyền thống của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tựợng chuyển nghĩa, cách diễn đạt gần với ca dao dân ca)
Tính dân tộc trong đoạn thơ
Tính dân tộc được thể hiện qua mặt nội dung:
Đoạn thơ tái hiện cuộc chia tay lưu luyến giữa người ở lại và người ra đi (giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng)
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi
Bốn câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: là tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
Đoạn thơ thể hiện được nghĩa tình sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mạng. Có lẽ, tình nghĩa sâu nặng ấy là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.
Tính dân tộc được thể hiện qua mặt nghệ thuật:
Thể thơ lục bát: Tác giả đã vận dụng và phát huy được ưu thế của thể thơ lục bát, một thể thơ dân tộc có nhạc điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển rất phù hợp để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của kẻ ở, người về.
Kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao được sử sụng tự nhiên và chân thành
Sử dụng tài tình đại từ mình – ta.
Lối nói truyền thống được thể hiện qua biện pháp hoán dụ, những hình ảnh nghệ thuật
Câu thơ giàu nhạc điệu với hệ thống từ láy, cách ngắt nhịp…
c. Kết bài
Khẳng định, đánh giá lại vấn đề (Với những đặc điểm trên đoạn thơ như một khúc hát ru nồng nàn, đằm thắm, mượt mà đi vào lòng người. Có thể nói, đoạn thơ là một minh chứng sắc sảo cho tính dân tộc trong thơ Tố Hữu)
Mở rộng vấn đề (Cảm nhận, liên tưởng của cá nhân)
“Mình đi mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” Gợi ý làm bài “Mỗi công dân đều có một dạng vân tay Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn…”
(Vân chữ- Cao Đạt)
Cái “vân chữ… không trộn lẫn” của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Cao Đạt nhắc đến ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình-chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc- bản anh hùng ca, cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc – một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể đến tám câu thơ đầu của tác phẩm:
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
-MOD Ngữ văn HOC247 (tổng hợp và biên soạn)
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
Tố Hữu – Thư kí trung thành của cách mạng
-Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng
-Phong cách thơ trữ tình chính trị
Bài thơ Việt Bắc: – Sáng tác 10.1954
-Khúc hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp
-Bản tình ca về ân tình cách mạng
8 câu đầu: -Cảm xúc, tâm trạng của người ra đi- người ở lại trong lần chia tay lịch sử
2. Thân bài: Hoàn cảnh sáng tác:
– Tháng 10.1954, khi hiệp định giơ ne vơ được kí kết, Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội; bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử giữa cán bộ về xuôi với thiên nhiên, con người Việt Bắc.
– Cảm hứng sáng tác: Nỗi nhớ
– Kết cấu: đối đáo của ca dao.
*Phân tích:
– Người ở lại:
+ Cách xưng hô mình, ta
+ Thời gian: 15 năm
+ Không gian: núi rừng
Nhận xét: Lời đưa tiễn cũng là những lời nhắc nhở về những kỉ niệm đẹp tropng kháng chiến.
* Sự im lặng của người ra đi:
+ Tâm trang: Luyến tiếc, day dứt..
+ “Bâng khuâng” ; ” Bồn chồn” : 2 từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái, tâm lí của người ở lại.
+ Áo chàm: màu áo đặc trưng của đồng bào Tây Bắc, bình dị, đơn xơ.
Tổng kết: Thành công về nội dung và thành công về mặt nghệ thuật.
3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ và sức sống của bài thơ.
“- Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi“- Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về về mình có nhớ khôngTiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điĐỗ Thị Thu Trang Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Mình về về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tháng 10.1954, Hiệp định Giơ ne vơ được kí kết Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử cán bộ về xuôi và thiên nhiên con người Việt Bắc. Tình cảm chia tay ấy được diễn tả dưới hình thức đối đáp của ca dao với 2 nhân vật trữ tình là mình và ta.
Việt Bắc 15 năm từng ấy là thủ đô kháng chiến, là mảnh đất cách mạng oai hùng của lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Bốn câu dầu là những tình cảm cảm xúc, là nỗi nhớ khôn nguôi của kẻ ở dành cho người ra đi:
Mình về là hoàn cảnh, là lí do để bộc lộ tình cảm. Nó gợi sự chia li, gợi sự xa cách giữa hai chủ thể mình – ta .Có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ chắc chắn nỗi nhớ ấy phải da diết, phải sâu nặng lắm. Cách xưng hô mình- ta, Tố Hữu đã cho thấy sự thân mật, thân thương trong quan hệ, trong tình cảm giữa cán bộ về xuôi với quê hương cách mạng. Lời mở đầu cũng là lời nhắc về thời gian 15 năm – “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Lời nhắc về không gian núi rừng đại ngàn, nơi căn cứ địa Việt Bắc, đó là lời nhắc về những kỉ niệm, lời nhắc về những hồi ức của một thời chiến đấu rực lửa. Mười năm năm ấy là khoảng thời gian cán bộ chiến sĩ phải sống, phải chiến đấu oai hùng giữa mưa bom, bão đạn, phải trải qua bao mất mát, đau thương. Thế nhưng, tất cả những mất mát, những đau thương ấy đã phai đi chỉ để lại sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia ngọt sẻ bùi của những người chiến sĩ cách mạng với quê hương Việt Bắc- tình cảm “thiết tha mặn nồng”.
Bốn câu thơ có đến hai câu hỏi nhưng không chỉ để hỏi, để khơi lại kỉ niệm bốn câu thơ còn là lời nhắc nhở khéo léo, tâm tifnhcura quê hương Việt Bắc với người chiến sĩ. Người chiến sĩ về xuôi chớ quên đi tình nghĩa, chớ quên đi mảnh đất đã từng vào sinh ra tử, mảnh đất đã cùng người sống và chiến đấu không quản khó nhọc, không ngại khổ cực. Mảnh đất ấy là cội nguồn của cách mạng, là nơi ân tình sâu nặng.
Trước lời nhắc nhở ấy, người ra đi không hề có lời đáp lại. Tình cảm của họ được biểu thị bởi hành động:
Dường như cán bộ chiến sĩ về xuôi đã quá thấu hiểu, đã quá quen thuộc với tình cảm, tấm lòng của người ở lại. Họ dù có lưu luyến, có bâng khuâng tiếc nuối thì vẫn phải tiếp tục lên đường. Bâng khuâng” . ” bồn chồn” là 2 từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái, tâm lí của người ở lại: buồn vui, nhớ thương, luyến tiếc. Ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng, bồn chồn đã tạo ra sự đồng điệu, biểu thi bước chân ngập ngừng, lưu luyến. Mười năm năm Việt Bắc và người chiến sĩ cùng nhau trải qua biết bao gian khổ, mất mát.
Trong thời khắc chia li, hình ảnh khắc sâu nhất với người chiến sĩ có lẽ là “áo chàm”. Áo chàm là màu áo đặc trưng của đồng bao Tây Bắc, màu áo bình dị, đơn sơ, màu áo của sự thủy chung, son sắt. Hành động cầm tay là hành động trao gửi yêu thương, trao gửi tình cảm. Cái năm tay ấy cũng như lời chfao, lời tạm biệt và có lẽ đó là một lời thề của người chiến sĩ với quê hương cách mạng – Việt Bắc. Trái tim người chiến sĩ dù có đi đâu, dù là nơi nào thì vẫn luôn son sắt, thủy chung, tình nghĩa với con người và mảnh đất cách mạng.
Tám câu đầu Việt Bắc nói chung và toàn bài thơ nói chung không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố nghệ thuật: thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp của ca dao, từ ngữ giàu tính biểu đạt. Tất cả đã tạo nên khúc tình ca về ân tình cách mạng giữa cán bộ về xuôi với đất và người Việt Bắc.
Từ khóa tìm kiếm:
Cảm Nhận 20 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
B. Dàn ý chi tiết
a. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: 20 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc
b. Thân bài
Những nét khái quát chung:
Hoàn cảnh sáng tác, kết cấu bài thơ, nội dung bài thơ
Vị trí đoạn trích: nằm ở phần đầu bài thơ
Nội dung đoạn trích: là lời đối đáp ân tình giữa người đi kẻ ở trong giây phút lưu luyến chia tay. Những kỉ niệm ập về, lời ướm hỏi của người ở lại hay lời nhắn nhủ tình nghĩa với người ra đi như tiếng lòng da diết khắc khoải khôn nguôi.
Những nội dung cần làm rõ
Bốn câu thơ đầu: lời người ở lại thể hiện tình cảm sâu nặng, gắn bó khăng khít giữa người Việt Bắc với cách mạng đã khái quát một giai đoạn lịch sử đồng thời khắc sâu tình cảm theo năm tháng.
Bốn câu thơ tiếp: Tiếng lòng của người về xuôi (người ra đi)như khúc nhạc dạo đầu cho khúc hát tình nghĩa.
Mười hai câu thơ tiếp: Lời người ở lại gợi nhớ những kỉ niệm chiến khu.
Dường như từng kỉ niệm, không gian, thời gian, địa điểm hiện từ mờ xa đến gần gũi và xác định cụ thể qua từng hình ảnh, chi tiết.
Tất cả từ ngữ, hình ảnh đã tái hiện biết bao kỉ niệm ngọt bùi, đậm đà tấm chân tình trao nhau đã làm nên ngày hôm nay tươi sáng
Nghệ thuật:
Câu hỏi tu từ: gợi sự tha thiết, mặn nồng, làm sống dậy không gian và thời gian nghệ thuật
Hình ảnh sóng đôi từng cặp, kết cấu lặp, trùng điệp gợi lên tình cảm gắn bó giao hòa
Điệp từ “nhớ” gợi nỗi day dứt khôn nguôi trong lòng kẻ ở, người đi làm tăng thêm sự da diết quyến lưu.
Nghệ thuật hoán dụ : áo chàm làm câu thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc
Nhân hóa (rừng núi nhớ ai), và cách nói đảo ngữ, tương phản đối lập (hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son…)
c. kết bài
Suy nghĩ và cảm nhận của cá nhân, đánh giá về 20 dòng thơ đầu
Mở rộng vấn đề ( bằng ý kiến và liên tưởng của cá nhân)
Đề bài: Cảm nhận hai mươi câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc của nhà thơTố Hữu
Gợi ý làm bài
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện đại, là “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tởng cộng sản”. Tập thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ Việt Bắc được coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu. Việt Bắc là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc.
Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ Tố Hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những bài thơ của Tố Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng của cách mạng Việt Nam. Thơ ông quả là cuốn biên niên sử bằng thơ như có nhà nghiên cứu đã đánh giá. Và Việt Bắc không phải là ngoại lệ.
Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho đất nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ Việt Bắc đã ra đời. Việt Bắc không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, với đất nước, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách “Tâm tình hoá”, là một đặc trưng của lối thơ trữ tình chính trị Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của Việt Bắc thể hiện rất rõ đặc trưng nghệ thuật này.
Việt Bắc là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với nhân dân.
Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp Tố Hữu tâm sự rằng: “Mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình. Và đã nói về đất nước về nhân dân như nói về người mình yêu”. Cho nên tình yêu biến thành tình nghĩa Việt Bắc đã trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ.
Có thể khẳng định rằng đoạn thơ trên là những câu thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc.
— MOD Ngữ văn HOC247 (tổng hợp và biên soạn)
Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Học Sinh Giỏi Lớp 12
Đề bài : Em hãy lập dàn ý và phân tích bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu và ý nghĩa của thơ ca trong kháng chiến.
– Kết cấu đối đáp vốn quen thuộc trong ca dao, dân ca
– Lời của người ở lại: phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một câu hỏi, gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong quãng thời gian “mười lăm năm ấy”
– Lời của người ra đi: thể hiện niềm nhớ thương với hàng loạt từ thể hiện cảm xúc “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…
* Lời của người ở lại:
– Gợi nhắc lại một cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm.
* Lời của người ra đi:
Lời đáp của người ra đi như một lời thế son sắt thủy chung – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:
– Nhớ thiên nhiên:
Mùa đông: “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” – sự kết hợp màu sắc hài hòa.hài hòa
Mùa xuân: “ngày xuân mơ nở trắng rừng” – sắc trắng của hoa mơ như bung tỏa khắp mọi không gian của núi rừng .
– Nhớ con người Việt Bắc:
+ Những con người cần cù, luôn hiện lên trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, quê hương, đất nước: “người đan nón chuốt từng sợi giang”,”cô em gái hái măng một mình”,”tiếng hát ân tình thủy chung”
– Nhớ Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến:
+ Hình ảnh thơ gợi nên khí thế của cuộc kháng chiến: quân đi điệp điệp trùng trùng, dân công đỏ đuốc từng đoàn, đèn pha bật sáng,…
– Khẳng định vai trò, vị trí của Việt Bắc trong kháng chiến và lwoif thề thủy chung, son sắt:
Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
Tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở lại. Để rồi, qua lời đối đáp ấy người đọc có thể hình dung thấy khung cảnh chia tay lưu luyến, nói chẳng nên lời giữa nhân dân Việt Bắc với những người cán bộ:
Với việc sử dụng phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một câu hỏi, qua đó người ở lại gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong thời gian “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – mười lăm năm nghĩa tình, mười lăm năm gắn bó thủy, mười lăm năm đồng cam cộng khổ mà người dân Việt Bắc và những người cán bộ đã sát cánh bên nhau. Và trước những lời ướm hỏi đầy chân tình ấy của nhân dân, của người ở lại, người ra đi đã không thể che dấu nỗi lòng mình. Để rồi, có lẽ, sẽ chẳng ai có thể nào quên được khung cảnh những người tiễn cán bộ về xuôi, tay trong tay nói chẳng nói chẳng nên lời giữa kẻ ở người đi. Khung cảnh bịn rịn ấy được thể hiện rõ nét qua hàng loạt các từ thể hiện cảm xúc của người ra đi “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…
Nếu như tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở lại thì phần còn lại của bài thơ chính là lời đối đáp thứ hai. Mở đầu lời đối đáp thứ hai là lời của người ở lại với mười hai câu thơ. Dường như, trong nỗi niềm của người ở lại, câu hỏi luôn là nỗi quan tâm duy nhất, luôn thường trực trong họ và xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Và nếu như ở lời đối đáp thú nhất, lời hỏi của người ở lại chỉ là lời ướm hỏi thì đây, người ở lại đã gợi nhắc lại một cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm. Đó là những kỉ niệm dẫu khó khăn, gian nan nhưng tràn đầy ân nghĩa và tấm lòng lạc quan, niềm tin yêu giữa cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, ở đây, điệp từ lại thêm một lần nữa được điệp lại nhiều lần như khắc sâu vào trái tim, vào nỗi lòng của cả người ra đi và người ở lại.
Và rồi, trước lời của người ở lại, người ra đi đã khẳng định một cách chắc chắn về nỗi nhớ con người, cảnh vật nơi đây, lời đáp của người ra đi như một lời thế thủy chung son sắt – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:
Và rồi, trong lời đáp của mình, người ra đi đã vẽ lại một cách chân thực và sâu sắc từng kỉ niệm, từng ấn tượng của mình của thiên nhiên, về con người và về những năm tháng gian khổ mà hào hùng, những ân tình giữa người ra đi và người ở lại. Trước hết, đó là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc. Trong cảm nhận của người ra đi, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật vẹn tròn, mang đầy đủ những đặc trưng rất riêng của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh thiên nhiên mờ ảo, hư thực, gần gũi và thân quen. Đó là ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, mênh mông với hình ảnh đậm chất thơ “trăng lên đầu núi”. Đó là “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan hòa, ấm áp mỗi buổi chiều. Đó là những bản làng chìm trong màn sương trông thật huyền ảo với những ảnh lửa bập bùng trong đêm tối và cả những rừng nứa, bờ tre, suối Lê – những hình ảnh rất riêng, là điệu hồn riêng củ núi rừng Tây Bắc.
Không dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi đó còn là bức tranh tứ bình, để rồi trong đó, người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của thiên nhiên, của cảnh vật Việt Bắc ở mỗi mùa trong năm. Mùa đông, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ hài hào giữa nền xanh của rừng cây bạt ngàn chính là sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng – “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” – sự kết hợp hài hòa ấy tạo cho bức tranh mùa xuân nơi đây thêm thật đẹp, thật ấm áp và ánh lên sức sống. Xuân qua, đông tới, thiên nhiên Việt Bắc khoác lên mình sắc trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng, báo hiệu xuân về trên mảnh đất Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ như bung tỏa khắp mọi không gian của núi rừng – “ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Và để rồi, hè về, thiên nhiên nơi đây lại nhanh chóng, đột ngột chuyển mình. Dường như, tiếng đã làm cho “rừng phách đổ vàng”, rừng phách đã chuyển mình, đã bừng tỉnh để đón hè vè. Đặc biệt, trong bức tranh ấy, hình ảnh mùa thu với ánh trăng hóa bình gợi nên trong chúng ta thật nhiều nỗi niềm, thật nhiều ấn tượng.
Nhớ về Việt Bắc, người ra đi không chỉ nhớ về vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên và còn nhớ cả về những con người ân nghĩa nơi mảnh đất này. Đó là hình ảnh những người mẹ kháng chiến vất vả, lam lũ, cơ cực nhưng cần cù chịu khó:
Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy chung, tình nghĩa, họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.
Đồng thời, hình ảnh con người Việt Bắc mỗi mùa một công việc khác nhau nhưng luôn hiện lên trong tư thế lao động, tư thế làm chủ quê hương, đất nước. Có lẽ, người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh tỉ mỉ, cẩn thận “người đan nón chuốt từng sợi giang”, là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” và đó còn là “tiếng hát ân tình thủy chung” gợi nên trong lòng người ra đi bao nhiêu nghĩ suy, bao nhiêu ân nghĩa. Như vậy, trong nỗi nhớ của người ra đi, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp.
Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ về một Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến. Với giọng thơ hào hùng, mạnh mẽ, nhanh, dồn dập đã góp phần diễn tả sự hào hùng của Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến. Đồng thời, việc lựa chọn sử dụng các hình ảnh cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Nhớ về Việt Bắc trong kháng chiến là nhớ tới một không gian “những đường Việt Bắc của ta” – một không gian rộng lớn, bao la, mênh mông, một bối cảnh rộng. Để rồi, trên cái nền không gian rộng lớn, mênh mông ấy, hình ảnh quân và dân ta hiện lên thật đẹp, thật hùng dũng. Khí thế ấy hiện lên thật rõ nét qua hình ảnh những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, đoàn quân này nối tiếp đoàn quân khác tạo nên một đoàn quân dài, cứ thế nối nhau “quân đi điệp điệp trùng trùng”,”dân quân đỏ đuốc từng đoàn” đồng thời, đó còn là hình ảnh “đèn pha bật sáng”. Tất cả, tất cả những hình ảnh ấy quyện hòa vào nhau, bổ sung cho nhau để vẽ nên một Việt Bắc với khí thế dũng mãnh, dồn dập, dường như tất cả cùng nhau ra trận, người người đánh giặc, nhà nhà đánh giặc – hình ảnh một Việt Bắc hào hùng, anh dũng trong những năm tháng chống Pháp. Không chỉ nhớ về khí thế hào hùng của Việt Bắc, người ra đi còn nhớ và tái hiện lại những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược.
Thêm vào đó, trong mười sáu câu thơ cuối của bài thơ, tác giả còn nêu bật lên cho chúng ta thấy vai trò, vị trí to lớn của Việt Bắc trong những năm tháng quân và dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Việt Bắc trước hết là quê hương cách mạng, là đầu não, là cái nôi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời, Việt Bắc còn là nơi khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, nơi tiếp thêm cho quân và dân ta niềm tin, niềm hi vọng về ngày chiến thắng, về ngày hòa bình của dân tộc, của Tố quốc.
Để rồi, sau tất cả, hai câu kết thúc bài thơ như một lần nữa cất lên lời thề thủy chung son sắt với nhân dân, với quê hương cách mạng.
.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Tích Tính Dân Tộc Trong 8 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Việt Bắc trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!