Đề Xuất 3/2023 # Phân Tích Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Hay Nhất (Dàn Ý # Top 5 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 3/2023 # Phân Tích Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Hay Nhất (Dàn Ý # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Tích Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Hay Nhất (Dàn Ý mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất (dàn ý – 5 mẫu)

Đề bài: Cảm nhận khổ 3 trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

… “Mình đi, có nhớ những ngày

(…) Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”…

Bài giảng: Việt Bắc: phần 2: Tác phẩm – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc

I. Mở bài:

– Giới thiệu về 12 câu thơ trong bài thơ Việt Bắc

II. Thân bài:

* Phân tích 4 câu đầu đoạn

– Tiếng “mình” cất lên thật gần gũi, thân thuộc → tình cảm thắm thiết, ân tình

– Những câu hỏi vừa như trách móc lại vừa như lo lắng, bùi ngùi: mưa nguồn suối lũ; mây cùng mù; miếng cơm chấm muối; mối thù chung

– Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết tha trong lòng người ở lại

* Phân tích 6 câu tiếp

– Lối xưng hô “mình”, “ta” độc đáo, chỉ hai mà một, đó là hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi.

– “Rừng núi” là cách nói hoán dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc.

– Người cách mạng ra đi không chỉ để lại nỗi nhớ nhung trong lòng người ở lại mà cảnh vật cũng nhuốm màu buồn bã, quyến luyến: trám bùi rụng; măng mai già.

– Tình cảm của nhân dân Việt Bắc luôn “đậm đà lòng son”

* Phân tích 2 câu cuối đoạn

– 3 tiếng ” mình” trong hai câu thơ chỉ người ở lại và kẻ ra đi

– Sự hài hoà, thấu hiểu nhau của nhân dân với cách mạng

– Nhắn nhủ về cách sống thủy chung với quá khứ khi gợi nhắc những địa điểm đánh dấu bước ngoặt cách mạng: Tân Trào, Hồng Thái

III. Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị của đoạn trích và tài năng của tác giả.

Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc – mẫu 1

“Trên đường ta về lại thủ đô

Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ”

(Ta đi tới)

Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, thủ đô Hà Nội và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (10 – 1954). Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát, bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, những kỉ niệm sâu sắc cảm động của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung “15 năm ấy thiết tha mặn nồng”.

… “Mình đi, có nhớ những ngày

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”…

Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm về Việt Bắc, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, mà “ta” hỏi “mình đi, có nhớ”. Hai chủ thể trữ tình, là người ở lại, là đồng bào Việt Bắc, là cô gái Việt Bắc, đang hát lời tiếng đưa “thiết tha bên cồn”. “Mình” cũng là một chủ thể trữ tình phiếm chỉ, ước lệ, cùng với “ta” tạo nên một cặp nhân vật trong giao duyên, đưa tiễn, ở đây là người cán bộ kháng chiến về xuôi, trong đó có nhà thơ. Mỗi cặp lục bát nhắc lại một kỉ niệm về Việt Bắc. Những chi tiết nghệ thuật vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng giàu sắc thái biểu cảm.

Các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện, như nhắc nhở, như gợi nhớ gợi thương: “Mình đi, có nhớ những ngày”…, “Mình về, có nhớ chiến khu”…, “Mình về, rừng núi nhớ ai”…, “Mình đi, có nhớ những nhà”… Điệp ngữ “có nhớ” làm cho cảm xúc thơ lắng đọng, giọng thơ trở nên tha thiết bồn chồn, ngọt ngào sâu lắng. Hai tiếng “mình đi” và “mình về” được luân phiên giao hoán, chuyển đổi, một cách diễn đạt biến hóa, sinh động, có giá trị gợi lên cảnh tiễn đưa nhiều bâng khuâng, hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần, nhưng trong lòng vẫn mang theo tiếng hát và nỗi nhớ.

Các câu bát trong đoạn thơ đều được tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng hài hòa. Những kỉ niệm sâu sắc chứa chan ân tình ân nghĩa đối với kẻ ở, người về được nhắc lại gợi lên bao nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”…

Mình đi có nhớ “Mưa nguồn suối lũ

Mình về, có nhớ “Miếng cơm chấm muối

Hỏi núi rừng “nhớ ai”, cũng là hỏi “mình về, có nhớ”. Nghệ thuật nhân hóa và đại từ “ai” phiếm chỉ gợi lên bao man mác, bâng khuâng:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng

Trám bùi, măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc trong những tháng ngày gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho mối tình Việt Bắc sâu nặng ân nghĩa. Các từ ngữ: “để rụng”, “để già” thoáng chút bùi ngùi, cô đơn, thương nhớ.

Kỉ niệm thứ tư, ta hỏi “mình đi, có nhớ”:

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám

Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đặc sắc. “Những nhà” được nhà thơ nói đến là tất cả đồng bào của dân tộc Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” là cảnh hoang vu hoang vắng của núi rừng, biểu tượng cho sự nghèo đói, thiếu thốn vật chất. Tương phản với “hắt hiu lau xám” là “đậm đà lòng son”, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng đẹp. Đẹp ở hình tượng và hay vì giàu sắc thái biểu cảm. Qua thủ pháp tương phản, Tố Hữu ca ngời đồng bào Việt Bắc tuy còn nghèo khổ, thiểu thốn nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

Cùng với chữ “ta”, chữ “mình” xuất hiện với tần số cao trong bài “Việt Bắc” cũng như trong đoạn thơ này, đã tạo nên sắc điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc. Tố Hữu đã vận dụng cách nói và cách thể hiện tình cảm của dân gian trong ca dao, dân ca một cách sáng tạo. Tình cảm của cách mạng và kháng chiến, tình Việt Bắc, tình lưu luyến của lứa đôi, của kẻ ở người về được diễn tả qua hai tiếng “mình – ta” ấy.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã sống và hoạt động tại Việt Bắc, đã cùng đồng chí, đồng bào, bộ đội trải qua những tháng ngày gian khổ mà hào hùng, vinh quang. Lời đưa tiễn thiết tha, sâu lắng, bồi hồi trong lòng kẻ ở người về. Cảm xúc ấy là tiếng lòng của “mình – ta” cũng là tiếng lòng của nhà thơ.

“Thơ là tiếng lòng trang trải”. “Việt Bắc” là tiếng lòng trang trải của người cán bộ kháng chiến với bao “ân tình thủy chung”.

Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc – mẫu 2

Xuân Diệu từng tâm sự khi đọc thơ Tố Hữu: “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Cuộc đời Tố Hữu là cuộc đời dân tộc, lẽ sống Tố Hữu là lẽ sống của đồng bào. Câu thơ Tố Hữu cũng thế, câu thơ của những cuộc kháng chiến:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.

Những câu thơ đầu là khúc dạo đầu của bản trường ca, tái hiện lại những ngày tháng gian khổ khó khăn mà thấm đượm ân tình, ân nghĩa:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Đoạn thơ là một loạt những câu hỏi được điệp lại: “Mình đi, có nhớ…”, “mình về, có nhớ…” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng, ân tình. Cách xưng hô “mình – ta” cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc gợi nhớ về lối đối đáp quen thuộc trong những câu hát giao duyên, những điệu hát huê tình của chàng trai và cô gái, giữa mận và đào, của mai và trúc. Mượn tình đôi lứa cá nhân để biểu đạt một tình cảm lớn hơn: tình yêu đồng bào khiến câu thơ từ chính trị khô khan trở nên rất đỗi trữ tình. Trong những câu thơ sau, tác giả đã vận dụng sáng tạo cách ăn nói, lối diễn đạt dân gian: “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù” để tái hiện hình ảnh của thiên nhiên nơi rừng núi. Nếu thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên thơ mộng, lãng mạn trong cái nhìn của Quang Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” thì thiên nhiên đối với những con người nơi đầu nguồn chớp bể thực sự không dễ dàng: “mưa nguồn suối lũ” tưởng như có thể đánh bại và làm con người biến mất bất cứ lúc nào. Sau này, hình ảnh mưa ấy cũng vào trong trang thơ của Phạm Tiến Duật, trên con đường tiến tới lí tưởng: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Hơn nữa, lại thêm “những mây cùng mù”- trên mây, dưới mù gợi lên cái gì hoang vu, u lạnh của một vùng thâm sơn cùng cốc nào đó. Biện pháp đối lập: “Miếng cơm chấm muối” – “mối thù nặng vai” không chỉ nói lên những gian khổ khó khăn mà con người ở đây phải gánh chịu mà qua đó còn khẳng định lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của con người. Điều kiện càng khó khăn, gian khổ càng nhắc nhở con người về mối thù không còn vô hình mà đã hữu hình, có sức nặng và cảm nhận được.

Tiếp nối mạch cảm xúc ấy nhưng những câu thơ lại chở chút luyến lưu, xao xuyến và cả những băn khoăn:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Một loạt những cụm từ “Trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, “hắt hiu lau xám” như những nỗi băn khoăn về sự thay đổi, phai nhạt của lòng người theo thời gian để rồi mọi thứ cũng héo úa, tàn lụi dần. Nhưng kết thúc lại là hình ảnh tươi rói, ấm áp bao nhiêu: “đậm đà lòng son” nổi lên giữa sự mờ nhạt xung quanh. Câu thơ kết lại chắc nịch về mối tình ân nghĩa, thủy chung không thể đổi thay.

Cuối cùng là lời trao gửi của người ở lại để nhắc nhớ về hành trình kháng chiến của toàn dân tộc với những chặng đường đáng nhớ:

“Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Trong câu hỏi cuối: có đến ba từ “mình”. “Mình” thứ nhất và thứ hai để chỉ người ra đi. Vậy còn từ “Mình” thứ ba? Vẫn là người ra đi? Hay đó là người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. Mình và ta giờ đã không còn phân biệt được nữa rồi. Mình là ta, ta và mình hòa quyện trong nhau, cùng sống, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu để cùng tận hưởng niềm vui chiến thắng. Những tình cảm đó, sẽ là “ta” đi theo mình đến mọi chặng đường, dù khi ấy “mình” có đi đâu chăng nữa.

Đoạn thơ gợi nhắc về những tháng năm kháng chiến, những ân tình cách mạng mà không hề khô khan, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người đọc bởi thể thơ lục bát quen thuộc, kết cấu của những câu hát yêu thương tình nghĩa với giọng điệu thiết tha, da diết. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc mà có sức gợi đến bất ngờ. Chính những năm tháng ấy, những con người ấy là điểm tựa, là động lực để làm nên những chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nếu nói văn học chính là “tấm gương lớn di chuyển trên đường cái”, là “phong vũ biểu của thời đại” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là tác phẩm như thế. Nó đã làm trọn trách nhiệm của mình, của văn học: phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu.

Xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên thay cho lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”

Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc – mẫu 3

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20. Không những nhiều về số lượng bài viết mà Tố Hữu còn có những bài thơ xuất sắc, bám sát và kịp thời phản ánh các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm xuất sắc làm tròn nhiệm vụ ấy. Tình cảm luyến lưu, bịn rịn của người đi, kẻ ở thắm thiết qua lời dặn dò thiết tha ở khổ thơ 3 của bài thơ.

Nếu ở khổ 1 và 2 là lời của người đi thì khổ thơ 3 là lời dặn dò của người ở lại. Nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng sắt son với cách mạng, thiết tha gửi lời đinh ninh:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi có nhớ những nhà

Mắt hiu lau xám đậm đà lòng son”.

Ở khổ thơ này, người ở lại nhắc lại những kỉ niệm về thiên nhiên con người và cuộc kháng chiến nơi rừng núi Việt Bắc. Cụm từ “mình đi, mình về” và điệp từ “nhớ” được lập lại nhiều lần tại nên âm hưởng thơ trùng điệp, khắc sâu thêm những kỉ niệm không thể nào quên. Hàng loạt những câu hỏi tu từ trong đoạn thơ đã diễn tả tình cảm tha thiết của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”.

Người ở lại nhắc tới những ngày kháng chiến đấu ở Việt Bắc là những ngày biết bao gian lao vất vả. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” vừa nói lên những cái thiên nhiên khắc nghiệt mang nét đặc trưng riêng của Việt Bắc, vừa nói lên giai đoạn kháng chiến phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đó là những gian truân của người ở lại và những người ra đi đã từng trải qua, từng thấm thía trên mảnh đất Việt Bắc suốt cuộc trường kì kháng chiến.

Câu thơ “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối tạo nên một cấu trúc hài hoà. Ý thơ diễn tả cuộc sống kháng chiến vô cùng gian khổ và thiếu thốn. Thế nhưng, giữa cái nghèo khổ và cơ cực ấy, nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng thủy chung, lúc nào cũng kề vai sát cánh cùng cán bộ cách mạnh chiến đấu với một lòng căm thù giặc sâu sắc.

Hình ảnh thơ như một biểu tượng về sự đồng lòng, đoàn kết và tinh thần đồng cam cộng khổ giữa quần chúng kháng chiến với cán bộ cách mạng. Cụm từ “mối thù nặng vai” thể hiện cách dùng từ độc đáo của Tố Hữu. Tác giả đã biến cái cảm xúc vốn trừu tượng thành cái cụ thể có thể cân đo bằng sức nặng để biểu đạt lòng căm thù rất lớn với kẻ thù xâm lược.

Trong tâm trạng lưu luyến khi chia xa, người ở lại tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm một thời đã từng gắn bó, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi:

“Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”

Câu thơ miêu tả tình cảm chân thành, mộc mạc của nhân dân Việt Bắc với cách mạng qua hai vế tiểu đối hắt hiu lau xám và “đậm đà lòng son”. Cuộc sống càng gian khổ khó nhọc bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc lại hết lòng thủy chung bấy nhiêu. Vì ân tình quá sâu nặng cho nên khi người cán bộ kháng chiến về xuôi, dường như cả núi rừng Việt Bắc cũng trở nên hoang vắng, hiu quạnh. Núi rừng cũng hụt hẫng một nỗi nhớ khôn nguôi:

“Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Trám và măng là những món ăn thường nhật của bộ đội ở chiến khu. Đó cũng là đặc sản của núi rừng Việt Bắc. Phép hoán dụ trong câu thơ “mình về, rừng núi nhớ ai” gợi nhiều cảm xúc động. Cán bộ về xuôi rồi, trám không ai hái để rụng khắp rừng, măng không ai ăn để già khắp núi. Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “nhớ ai” làm cho nỗi nhớ của người Việt Bắc càng thêm tha thiết.

Người ở lại tiếp tục gợi nhắc kỷ niệm về cuộc kháng chiến. Đó là nhắc tới chiến khu Việt Bắc gắn liền với những sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

“Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa”

Việt Bắc không chỉ có vai trò quan trọng kháng chiến chống Pháp mà cả trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám trước đó. Việt Bắc từng là nơi diễn ra những sự kiện chính trị qua trọng khi lực lượng cách mạng còn non trẻ nhưng lại có tính chất quyết định mọi thắng lợi cho cuộc cách mạnh trên cả nước. Địa danh “Tân Trào”, “Hồng Thái”, “mái đình”, “cây đa” đã trở thành nhân chứng lịch sử cho thời kỳ vất vả nhưng hào hùng của cách mạng Việt Nam.

Ở câu thơ “mình đi, mình có nhớ mình” có đến ba từ “mình” quyện vào nhau trong câu thơ 6 chữ. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba là một từ đa nghĩa.

Nếu hiểu “mình” là người Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc còn nhớ người ở lại hay không?

Nếu hiểu “mình” chính là cán bộ kháng chiến – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – thì câu thơ lại có ý nghĩa: cán bộ về xui cán bộ còn nhớ về chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp và độc lập, tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này người ở lại đã đặt ra một vấn đề mang tính thời sự: đừng ngủ quên trên chiến thắng; đừng quên đi quá khứ hào hùng của dân tộc suốt một thời kỳ kháng chiến gian khổ, hào hùng.

Chữ “mình” ở đây còn được hiểu theo nghĩa bao hàm cả người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến. Ý thơ nhắc nhở người ra đi đừng quên những ân tình sâu nặng, đã từng gắn bó keo sơn trong quá khứ. Mỗi kỉ niệm được nhắc lại đều mang ý nghĩa lịch sử rất sâu sắc mà cốt lõi là: Việt Bắc là cội nguồn, là quê hương của cách mạng; Việt Bắc là nơi sinh ra lực lượng cách mạng và nơi bắc đầu của mọi thắng lợi. Ý thơ thể hiện lòng biết ơn của tác giả và hình ảnh thủy chung với cách mạng.

Đoạn thơ ngắn chỉ với 12 câu thơ lục bát, nhưng nhà thơ đã sử dụng tới tám từ “mình”, bảy từ “nhớ” và hai cập từ “mình đi, mình về” lặp đi lặp lại nhiều lần như một điệp khúc. Đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, ý thơ cân xứng, hài hòa. Cộng với giọng điệu thơ du dương, ngọt ngào, tâm tình như lời ca dao, bộc lộ chân thành tình cảm sâu nặng của người ở lại và người ra đi. Đoạn thơ đã cho thấy “Việt Bắc” chính là khúc tình ca về cách mạng về cuộc sống và con người kháng chiến.

Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc – mẫu 4

Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca, thế hiển ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:

Mình đi,có nhớ những ngày.

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?

Việt Bắc là tác phẩm trường thiên, dài 150 dòng, được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hồ và cán bộ từ giã Thủ đô gió ngàn để về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.

Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ có nhớ, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa không ?. Để cho người ở lại hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối. Hình ảnh hoán dụ mối thù nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.

Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ rừng núi nhớ ai,rừng núi chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ ai là chỉ người cán bộ về xuôi, nhằm nhấn mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ. Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức trám bùi để rụng, măng mai để già, trám bùi và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.

Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.

Cụm từ nhớ những nhà – biện pháp hoán dụ – gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không? Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi hắt hiu lau xám.Từ láy hắt hiu kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn Việt Minh hay không ? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.

Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ mình thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ mình thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, mình là Việt Bắc- đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Ở nghĩa hẹp hơn, mình chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện cây đa Tân Trào (12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam – lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc Cách mạng Tháng 8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?

Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỷ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập mình đi – mình về. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi – mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.

“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám đến mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.

Sau khi cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước rời khỏi căn cứ địa Việt bắc quay trở về Hà Nội, từ những tâm tư tình cảm của tác giả, ông đã chắp bút tạo nên một tác phẩm tuyệt vời. Mở đầu khổ ba bài thơ, thi sĩ đã bộc bạch ngay những ngày tháng kỉ niệm giữa “ta” và “mình”

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Trải qua cùng nhau với biết bao khó khăn gian khổ, càng giúp cho tình cảm đôi ta trở nên khăng khít gắn bó hơn. Chính vì thế, tâm trạng quan tâm lo lắng của người ở lại khi bày tỏ lo sợ người ra đi sẽ nhanh chóng quên đi những kỉ niệm ấy. Trở về với chốn phồn hoa đô thị, “mình”- người lính cán bộ liệu còn nhớ tới “mưa nguồn suối lũ” hay “mây cùng mù”. ở chốn đô thành ấy, đâu còn hình bóng của quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ mây mù giăng lối, đâu còn chiến khu xưa cũ nơi chúng ta đã cùng kề vai sát cánh chiến đấu. “Miếng cơm chấm muối” – dẫu cuộc sống có khó khăn, vất vả gian truân nhưng chúng ta vẫn cùng chia sẻ, để chiến đấu đánh tan “mối thù nặng vai”- những kẻ địch gian ác đang ngày đêm xả bom chiếm nước của dân tộc ta.

Nối tiếp dòng chảy cảm xúc, Tố Hữu bộc bạch những tâm tư ấy qua những áng thơ sau:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – trong khi đấy chính là hình ảnh của người ở lại nơi đây. Nỗi nhớ luôn da diết trong lòng của nhân dân Việt Bắc với những người lính cụ hồ. Thiên nhiên cũng nhuốm màu của nhớ thương, để lan tỏa thấm đẫm vào cả “trám rụng- măng già”. Mình về sao khiến cả vật cả người trở nên trống trải, chắc còn thiết tha làm gì nữa. Những món ăn thường nhật của bộ đội ta qua mười năm kháng chiến là trám bùi, măng mai giờ đây cũng chẳng còn dịp để xuất hiện bên mâm cơm của người được nữa.

Ôi, biết bao câu hỏi trong lòng cứ thế tuôn trào dồn dập:

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Cụm từ “nhớ những nhà” là hình ảnh ẩn dụ gợi cho người đọc cảm nhận được tâm trạng băn khoăn: liệu rằng cán bộ có nhớ những khóm nhà mà người đã ở, đã nghỉ ngơi hay chăng chứ nhân dân nơi đây thì nhớ cán bộ nhiều lắm. Nhớ tới nỗi “hắt hiu lau xám”, từ láy “hắt hiu” kết hợp cùng cây cối chốn rừng núi càng làm bật lên khung cảnh hoang sơ, đơn độc giữa chốn thiên nhiên hùng vĩ. Thế nhưng, đối lập với cảnh đìu hiu ấy, vẫn có tấm lòng sắt son của con người luôn tràn đầy ấm áp tình thương. Núi non nơi này vẫn đợi người quay lại, từ thời kì kháng chiến “kháng nhật” tới “thuở còn Việt minh” thì mình với ta vẫn luôn cạnh nhau. Những địa danh lịch sử hào hùng như “tân trào hồng thái” năm nào luôn hiện hữu trong tâm trí của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ về cội nguồn dân tộc, nhớ về nơi đã nuôi dưỡng, sẻ chia biết bao niềm vui nỗi buồn là điều mà người dân Việt Bắc hi vọng các anh cán bộ luôn khắc ghi.

Đặc biệt, kết thúc đoạn thứ ba, Tố Hữu nhắc tới ba từ mình nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” đầu tiên và thứ hai để chỉ người lính cán bộ, còn từ còn lại để nhắc chung tới toàn thể nhân dân. Ta phải biết rằng, dân và ta đều hòa chung làm một khi tình cảm của chúng ta đều hướng về nhau. Những chiến thắng vang dội mà ta đã cùng nhau đạt được phải luôn được lưu truyền, đó cũng là một lời mà nhân dân muốn nhắc các anh không được ngủ quên trên chiến thắng, không được phản bội lại những tâm tình, lời hứa mà các anh đã để lại nơi đây. Việt Bắc chính là cái nôi nuôi dưỡng cách mạng, là nguồn động viên lớn lao cho các anh trong thời kỳ làm cách mạng. Bởi vậy, những lời người ở lại muốn nhắc nhở tới người về xuôi lại càng thắm thiết sâu sắc.

12 câu thơ trong khổ ba đã kết thúc trong những lời nhắc nhở, kỷ niệm chân thành. Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép những tâm tư tình cảm của đôi bên vào nhịp thơ 2/2/2-4/4 đều đặn, khiến cho nhịp thơ đồng điệu cùng những lời thổn thức tâm sự của nhân dân Việt bắc. Ông cũng muốn nhắc nhở cả bản thân ông và thế hệ mai sau phải luôn nhớ đến cội nguồn dân tộc, dù đói dù no thì cũng phải luôn kề vai sát cánh xây dựng vì mục tiêu đất nước hòa bình, hạnh phúc.

Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại chúng tôi

Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu

Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích:

Tố Hữu – Thư kí trung thành của cách mạng

-Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng

-Phong cách thơ trữ tình chính trị

Bài thơ Việt Bắc: – Sáng tác 10.1954

-Khúc hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp

-Bản tình ca về ân tình cách mạng

8 câu đầu: -Cảm xúc, tâm trạng của người ra đi- người ở lại trong lần chia tay lịch sử

2. Thân bài: Hoàn cảnh sáng tác:

– Tháng 10.1954, khi hiệp định giơ ne vơ được kí kết, Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội; bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử giữa cán bộ về xuôi với thiên nhiên, con người Việt Bắc.

– Cảm hứng sáng tác: Nỗi nhớ

– Kết cấu: đối đáo của ca dao.

*Phân tích:

– Người ở lại:

+ Cách xưng hô mình, ta

+ Thời gian: 15 năm

+ Không gian: núi rừng

Nhận xét: Lời đưa tiễn cũng là những lời nhắc nhở về những kỉ niệm đẹp tropng kháng chiến.

* Sự im lặng của người ra đi:

+ Tâm trang: Luyến tiếc, day dứt..

+ “Bâng khuâng” ; ” Bồn chồn” : 2 từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái, tâm lí của người ở lại.

+ Áo chàm: màu áo đặc trưng của đồng bào Tây Bắc, bình dị, đơn xơ.

Tổng kết: Thành công về nội dung và thành công về mặt nghệ thuật.

3. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ và sức sống của bài thơ.

“- Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi“- Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về về mình có nhớ khôngTiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điĐỗ Thị Thu Trang Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Mình về về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tháng 10.1954, Hiệp định Giơ ne vơ được kí kết Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử cán bộ về xuôi và thiên nhiên con người Việt Bắc. Tình cảm chia tay ấy được diễn tả dưới hình thức đối đáp của ca dao với 2 nhân vật trữ tình là mình và ta.

Việt Bắc 15 năm từng ấy là thủ đô kháng chiến, là mảnh đất cách mạng oai hùng của lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Bốn câu dầu là những tình cảm cảm xúc, là nỗi nhớ khôn nguôi của kẻ ở dành cho người ra đi:

Mình về là hoàn cảnh, là lí do để bộc lộ tình cảm. Nó gợi sự chia li, gợi sự xa cách giữa hai chủ thể mình – ta .Có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ chắc chắn nỗi nhớ ấy phải da diết, phải sâu nặng lắm. Cách xưng hô mình- ta, Tố Hữu đã cho thấy sự thân mật, thân thương trong quan hệ, trong tình cảm giữa cán bộ về xuôi với quê hương cách mạng. Lời mở đầu cũng là lời nhắc về thời gian 15 năm – “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Lời nhắc về không gian núi rừng đại ngàn, nơi căn cứ địa Việt Bắc, đó là lời nhắc về những kỉ niệm, lời nhắc về những hồi ức của một thời chiến đấu rực lửa. Mười năm năm ấy là khoảng thời gian cán bộ chiến sĩ phải sống, phải chiến đấu oai hùng giữa mưa bom, bão đạn, phải trải qua bao mất mát, đau thương. Thế nhưng, tất cả những mất mát, những đau thương ấy đã phai đi chỉ để lại sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia ngọt sẻ bùi của những người chiến sĩ cách mạng với quê hương Việt Bắc- tình cảm “thiết tha mặn nồng”.

Bốn câu thơ có đến hai câu hỏi nhưng không chỉ để hỏi, để khơi lại kỉ niệm bốn câu thơ còn là lời nhắc nhở khéo léo, tâm tifnhcura quê hương Việt Bắc với người chiến sĩ. Người chiến sĩ về xuôi chớ quên đi tình nghĩa, chớ quên đi mảnh đất đã từng vào sinh ra tử, mảnh đất đã cùng người sống và chiến đấu không quản khó nhọc, không ngại khổ cực. Mảnh đất ấy là cội nguồn của cách mạng, là nơi ân tình sâu nặng.

Trước lời nhắc nhở ấy, người ra đi không hề có lời đáp lại. Tình cảm của họ được biểu thị bởi hành động:

Dường như cán bộ chiến sĩ về xuôi đã quá thấu hiểu, đã quá quen thuộc với tình cảm, tấm lòng của người ở lại. Họ dù có lưu luyến, có bâng khuâng tiếc nuối thì vẫn phải tiếp tục lên đường. Bâng khuâng” . ” bồn chồn” là 2 từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái, tâm lí của người ở lại: buồn vui, nhớ thương, luyến tiếc. Ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng, bồn chồn đã tạo ra sự đồng điệu, biểu thi bước chân ngập ngừng, lưu luyến. Mười năm năm Việt Bắc và người chiến sĩ cùng nhau trải qua biết bao gian khổ, mất mát.

Trong thời khắc chia li, hình ảnh khắc sâu nhất với người chiến sĩ có lẽ là “áo chàm”. Áo chàm là màu áo đặc trưng của đồng bao Tây Bắc, màu áo bình dị, đơn sơ, màu áo của sự thủy chung, son sắt. Hành động cầm tay là hành động trao gửi yêu thương, trao gửi tình cảm. Cái năm tay ấy cũng như lời chfao, lời tạm biệt và có lẽ đó là một lời thề của người chiến sĩ với quê hương cách mạng – Việt Bắc. Trái tim người chiến sĩ dù có đi đâu, dù là nơi nào thì vẫn luôn son sắt, thủy chung, tình nghĩa với con người và mảnh đất cách mạng.

Tám câu đầu Việt Bắc nói chung và toàn bài thơ nói chung không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố nghệ thuật: thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp của ca dao, từ ngữ giàu tính biểu đạt. Tất cả đã tạo nên khúc tình ca về ân tình cách mạng giữa cán bộ về xuôi với đất và người Việt Bắc.

Từ khóa tìm kiếm:

Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Việt Bắc

Nhắc đến Tố Hữu người đọc không thể nào quên được những danh hiệu xứng đáng như: nhà cách mạng lão thành, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà thơ cách mạng lớn nhất của đất nước ở thế kỷ 20, nhà thơ lớn của dân tộc, nhà thơ lớn của thời đại.. Và đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông là bài thơ Việt Bắc. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Điều này được thể hiện rõ ở khổ thơ:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”

Thật vậy, Việt Bắc là đỉnh cao để đời thơ Tố Hữu. Nó là tác phẩm trường thiên dài. Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ kháng chiến. Bài thơ viết vào tháng 10/1954, khi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu việt Bắc trở về Hà Nội, để nhớ về những kỉ niệm đẹp nơi căn cứ địa ấy, ông đã chắp bút tạo nên một tác phẩm xuất sắc.

Mở đầu khổ 3 bài thơ, Tố Hữu đã khéo léo đưa ra những câu hỏi để bộc lộ tình cảm về những ngày tháng khi bên nhau giữa hai chủ thể giữa “ta” – “mình”. Nỗi nhớ ấy được bộc lộ ở trong câu từ bài thơ:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Đó là một tâm trạng quan tâm lo lắng của người ở lại bày tỏ nỗi niềm với người ra đi. Không biết khi cán bộ về xuôi có nhớ tới những con người kỉ niệm nơi chiến khu Việt Bắc với biết bao nhiêu yêu thương đong đầy vẫn còn vẹn nguyên như mới hôm qua. Với nỗi nhớ về thiên nhiên “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. Câu thơ lột tả vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy bí hiểm của núi rừng Việt Bắc thơ mộng. Hình ảnh “chiến khu” với “miếng cơm chấm muối” thể hiện cuộc sống chiến đấu vô cùng khó khăn thiếu thốn nhiều gian truân. Tố Hữu tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ hóan dụ “mối thù nặng vai” khéo léo khiến ta liên tưởng đến mối thù chung của dân tộc lúc bấy giờ xen lẫn giọng điệu nhẹ nhàng như nhắc nhở tình nghĩa luôn nồng nàn và còn mãi trường tồn theo thời gian.

Mạch cảm xúc vẫn tiếp tục tuôn chảy để ông chắp bút:

” Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Mình về có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”

Ở đọan thơ này, Tố Hữu đã tiếp tục sử dụng biện pháp hóan dụ để diễn tả nỗi nhớ của người ở lại với cách mạng. Nỗi nhớ ấy như luôn kéo dài, nó da diết khó nói thành lời. Thiên nhiên việt Bắc như thấm nhuần nỗi nhớ. Tình cảm của người Việt Bắc lan tỏa vào cảnh vật khiến “trám bùi để rụng măng mai để già”. Đại từ “mình về” khiến rừng núi Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng hơn. Cụm từ “nhớ những nhà” cũng gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết các bộ có nhớ tới Việt Bắc không?Từ láy “hắt hiu” kết hợp rất tài tình với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên. Nhưng đối lập với nó là hình ảnh tấm lòng chân thành của con người. Nhân dân Việt Bắc muốn họ nhớ “núi non”, nhớ thời kì kháng chiến “kháng Nhật” “thuở còn Việt minh”. Đó đều là những khỏang thời gian hạnh phúc, nhiều kỉ niệm khi cùng sát cánh bên nhau vượt qua mọi khó khăn, cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước trước kẻ thù.

Tình cảm của người dân Việt Bắc vẫn tiếp tục tuôn chảy. Họ còn kể về những địa danh lịch sử hào hùng:

“Mình đi mình có nhớ mình

Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”

Chỉ kết ngắn gọn với hai câu thơ ở khổ 3 đặc sắc này nhưng chính 2 câu thơ này tạo điểm nhấn rất lớn cho cả khổ này. Chỉ với hai câu thơ nhưng tình cảm mà Tố Hữu gửi gắm vào nó là vô cùng nhiều. Đặc biệt, ông đã khéo léo khi chỉ một từ “mình” được ông sử dụng nhưng nó mang tới hai nghĩa vừa chỉ người dân, vừa chỉ người cán bộ cách mạng về xuôi. Nhà thơ đã hình dung ra được diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng. Đây là câu thơ mang tính triết lí cao. Ở câu cuối, nhà thơ đã nhắc về những địa danh lịch sử nổi tiếng ở Việt Bắc với những sự kiện quan trọng gắn liền với nó. Cây đa Tân Trào là nơi đội việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát còn mái đình Hồng Thái nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định làm cuộc cách mạng tháng tám. Tố Hữu đã đặt hai địa danh này ở cùng một câu thơ nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của nó.

Tóm lại, chỉ với 12 câu thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới kỉ niệm của cách mạng. Ông rất tinh tế và khôn khéo trong việc hòa quyện giữa các biện pháp tu từ quen thuộc với những địa danh, đại từ “mình – ta” đặc sắc. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào mà sâu lắng được ông thể hiện một cách triệt để qua nhịp thơ nhẹ nhàng. Tố Hữu đã tạo ra một kiệt tác để đời bất hủ.

Soạn Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu

Đề bài: Soạn bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Câu 1.

Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

Bài thơ được sáng tác vào tháng 10/1954. Tố Hữu viết nhân sự kiện quân ta đã chiến thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Các chiến sĩ chia tay đồng bào miền núi để về thủ đô. Tình cảm của quân và dân Việt Bắc rất quyến luyến, bịn rịn. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bài thơ.

Sắc thái tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích:

Bịn rịn, lưu luyến

Nhớ nhung, không nỡ xa rời

Lối đối đáp của nhân vật trữ tình:

Biểu cảm tình cảm chân thật

Nhẹ nhàng, quyến luyến

Cách xưng hô mình – ta cho thấy sự gắn bó, yêu thương của những con người xa lạ nhưng chung một niềm quyết tâm với Tổ quốc.

Câu 2.

Vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc hiện lên qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình:

Cảnh đẹp thiên nhiên:

Những hình ảnh tả cảnh Việt Bắc với địa hình hiểm trở nhưng qua cái nhìn của đôi mắt yêu đời, thiên nhiên ấy vẫn hiện lên rất thơ mộng, lãng mạn: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương

Những địa danh cụ thể: ngòi Thia, sống Đáy, suối Lê

Thiên nhiên hoang vu, khắc nghiệt nhưng vẫn đẹp dưới cảm nhận của chủ thể trữ tình yêu nước.

Vẻ đẹp của con người:

Vẻ đẹp ấy được tác giả thể hiện qua những cử chỉ, hành động đầy nghĩa tình của người dân dành cho bộ đội: đắng cay ngọt bùi, chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

Người nông dân chịu thương chịu khó nuôi quân từng ngày: người mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Trong khung cảnh ấy, dù nguy hiểm, dù khắc khổ, thiếu thốn nhưng nghĩa tình của dân với quân, với cách mạng luôn dạt dào: Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo,

Kết luận: Cảnh và người Tây Bắc đều là những hình ảnh đẹp, thân thương và giản dị. Họ sống rất nghĩa tình dù vật chất chẳng có gì cao sang.

Câu 3.

Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc vai trò quan trọng của Việt Bắc trong chiến đấu được thể hiện rõ trong đoạn thơ:

” Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tât

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng “

Địa hình hiểm trở nhưng lại là lợi thế cho quân và dân ta làm chiến khu để đánh giặc.

Cuộc sống tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng nhân dân luôn dành hết tất cả những gì mình có cho bộ đội, cho cách mạng. Họ luôn lạc quan và tin vào cách mạng, tin vào sự chiến thắng của nhân dân ta vào một ngày không xa.

Quân và dân miền Bắc đã luôn giữ tinh thần hăng hái, sẵn sàng trong toàn cuộc tổng tiến công, giành thắng lợi vang dội khắp trăm miền.

Như vậy, Việt Bắc đã trở thành đầu não của kháng chiến, là nơi để mọi người đặt niềm tin và hi vọng vào sự toàn thắng.

Câu 4.

Hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc trong đoạn trích:

Bài thơ được viết theo thể lục bát. Đây là thể thơ truyền thống của ca dao Việt Nam

Cách xưng hô mình – ta là cách gọi truyền thống trong cuộc sống của người dân Việt Bắc.

Ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gẫn gũi với cuộc sống thường ngày

Tác giả sử dụng nhiều câu tục ngữ truyền thống của nhân dân ta như đắng cay ngọt bùi, mối thù nặng vai…

Nhạc điệu đậm chất dân tộc, khi nhẹ nhàng đằm thắm thiết tha kể về những ân tình mà quân và dân đã dành cho nhau trong những ngày kháng chiến gian khổ, khi lại da diết ngọt ngào, bọn rịn, luyến lưu không nỡ rời xa nhau trong cuộc chia ly đượm buồn.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Tích Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Hay Nhất (Dàn Ý trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!