Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Tích Đoạn Trích “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích” Của Nguyễn Du. mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thời gian trôi đi, bốn mùa luân chuyển, tạo hóa cho con người được sinh ra và cũng lại để họ ra đi ở cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi với thời gian. Và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của tác giả Nguyễn Du là một trong số những tác phẩm nghệ thuật như thế.
Nguyễn Du viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Đó là những lời xót xa của Nguyễn Du khi viết về cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống. Dường như ông thấu hiểu sự đau khổ và bất lực của những người phụ nữ trong xã thời phong kiến, cái xã hội thối nát, đầy rẫy những sự bất công và trọng nam khinh nữ. Tất cả những người phụ nữ ở thời đại đó đều thùy mị, đảm đang nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến, những cách nghĩ ngu muội mà cuộc đời họ đã chịu nhiều khổ cực. Mỗi người họ đều có một cuộc đời riêng, một nỗi đau khổ riêng, nhưng họ đều có đặc điểm chung là “bạc mệnh”. Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Thúy Kiều trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”
Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân). Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Vầng trăng ở đây có thể coi là chi tiết nghệ thuật nói về thời gian. Vầng trăng ấy là vầng trăng buổi chiều tà, lúc con người hay hướng về gia đình, nhất là người xa xứ. Họ nhớ về những người thân, những bữa cơm sum họp. Chắc chắn trong tâm hồn họ có bao nhiêu chất chứa không thể giải bày. Kiều cũng vậy, nàng đang ở thân phận như một tù nhân giam lỏng. Chắc chắn Kiều cũng đang nhớ về cha mẹ, hai em và người yêu của mình. Không gian ấy càng mênh mông, hoang vắng hơn khi Kiều nhìn xung quanh tứ phía:
“Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Từ trên lầu cao nhìn ra, bốn bề đều “bát ngát xa trông”, không một bóng người, chỉ có những cồn cát vàng nối tiếp nhau trong nắng chiều hồng rực của buổi hoàng hôn. Đây là một không gian đẹp có sắc màu, có hình ảnh nhưng chơi vơi và hoang vắng. Hình ảnh “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều. Kiều “bẽ bàng”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Kiều xấu hổ, tủi thẹn nghĩ đến việc buộc phải làm vợ Mã Giám Sinh, bị Tú Bà la mắng khi vừa bước chân đến lầu xanh và bị ép phải tiếp khách làng chơi. Trong lòng Kiều hiện tại có biết bao nhiêu nỗi niềm, biết bao sự ấm ức không thể chia sẻ cùng ai. Xung quanh chỉ có bốn bức tường ở lầu Ngưng Bích, sớm làm bạn với mây, tối trò chuyện với đèn. Nàng cô đơn đến mức tuyệt vọng. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín hết ngày này qua ngày khác. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi. Xung quanh chỉ có cảnh vật mà chẳng có người chia sẻ nỗi niềm, bởi vậy tác giả mới viết “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được. “Nửa tình, nửa cảnh”, buồn rồi nhớ, đợi chờ, hi vọng rồi thất vọng “như chia tấm lòng “, nối nhau đến rồi đi trong lòng nàng như thế. Nàng cô đơn gần như tuyệt đối. Như vậy, với bút pháp chấm phá đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên càng rộng lớn, con người càng nhỏ bé, đơn côi. Những câu thơ tái hiện một khung cảnh đẹp, êm đềm, có non xa, trăng gần nhưng vẫn đượm nét buồn bởi lòng người cô đơn, bẽ bàng và còn bởi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trong hoàn cảnh này, Kiều là người tội nghiệp nhất nhưng nàng lại luôn nghĩ cho người khác trước khi nghĩ đến mình. Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, nhưng thật ra lại là rất hợp lý. Kiều bán mình cứu cha và em là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng cắn rứt khôn nguôi. Người mà nàng nhớ đến trước hết là chàng Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trong mai chờ”
Nàng đang hình dung ra Kim Trọng trong nỗi “rày trông mai chờ’” nàng. Trước khi bán mình chuộc cha, nàng đã xác định với mình để không bao giờ còn đợi chờ, hi vọng. Huống chi bây giờ thân nàng đã rơi vào tay bọn Tú bà và họ Mã. Nhưng còn chàng Kim, chàng đâu đã biết việc nàng gặp tai biến. Ở Liêu Dương xa xôi, chàng vẫn ngày đêm trông chờ để sớm gặp lại nàng. Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn:
“Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Và như vậy, nàng biết rằng nàng sẽ không bao giờ quên được mối tình đối với chàng Kim, dù cuộc đời có lưu lạc nơi “chân trời góc bể”, dù nàng có muốn ”gột rửa”, muốn quên lãng nó đi… Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can. Cũng trong nỗi lòng thương nhớ luôn hướng về người khác ấy, nàng hình dung cha mẹ già “tựa cửa hôm mai” ngóng tin nàng:
“Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Nàng thấy “xót” nghĩ đến hình bóng tộ nghiệp của cha mẹ khi sang sớm, lúc chiều tà tựa cửa ngóng tin con mà con thì “bóng chim tăm cá”. Đây không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi đau, là tình thương với đấng sinh thành. Không biết ai sẽ là người thay nàng chăm sóc cha mẹ khi trái nắng trở trời. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay:
“Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Duy nhất trong đoạn thơ, chỗ này có dùng điển tích. Điển tích “sân Lai gốc tử” chỉ sự thay đổi của không gian, thời gian và cảnh vật. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Tất cả đã đổi thay và Kiều không còn được ở bên cha mẹ để phụng dưỡng song thân. Đó là tấm lòng của một đứa con hiếu thảo, một nét nhân cách đáng trân trọng. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ về người yêu và cha mẹ. Qua đó, chúng ta có thể thấy nàng là người vị tha, thủy chung, hiếu nghĩa, rất đáng trân trọng.
Nghĩ về cha mẹ, nghĩ về Kim Trọng, cuối cùng lại trở về với thiên nhiên mênh mông trước mặt, tự đối thoại với lòng mình. Nguyễn Du đã vận dụng rất thành công thủ pháp tả cảnh ngụ tình, mượn thiên nhiên để miêu tả nỗi niềm nhân vật, đặc biệt là bức tranh tứ bình. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua điệp ngữ liên hoàn “buồn trông”. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ ngút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược. Đây dường như là một điệp khúc của tâm hồn: buồn thì trông, trông rồi lại buồn. Tám câu thơ làm thành một bộ tứ bình cảnh sắc và tâm trạng đầy ấn tượng. Cứ mỗi lần từ “buồn trông” được lặp lại, thì một bức tranh thiên nhiên được vẽ ra, khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau. Nỗi buồn mở ra trước hết nơi cửa bể xa xăm:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?”
Một không gian mênh mông của cửa bể chiều hôm gợi nỗi buồn mênh mông bao trùm không gian đất trời. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, bỗng trở nên bé nhỏ, đơn côi trong hoàng hôn vàng rực. Hình ảnh ấy bất giác khơi gợi nỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ, gợi hành trình lưu lạc của chính thân phận nàng Kiều. Hình ảnh con thuyền trong thơ xưa thường diễn tả ước mơ trở về quê nhà của người tha hương. Phải chăng đó cũng là ước mơ trở về sum họp gia đình của Kiều – một ước mơ rất khó thực hiện?
Nếu như hai câu đầu gợi ra một không gian rộng, xa, thì hai câu tiếp theo điểm nhìn của nàng Kiều thu gần lại, như kiếm tìm điều gì đó để sẻ chia, đồng cảm với mình:
“Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Ngọn nước đổ từ trên cao xuống, tung bọt trắng xóa. Trên dòng nước dập dềnh ấy có “hoa”. Nó được miêu tả bằng từ “man mác” giàu sức biểu cảm. Đó là nỗi buồn vời vợi thật khó trả lời, cứ bâng khuâng trải dài theo con nước. Kiều nhìn thấy nơi hình ảnh “hoa trôi” cái số kiếp trôi nổi lênh đênh vô định của nàng. Nàng tự hỏi: cuộc đời mình sẽ đi về đâu? Sẽ như cánh hoa kia bị dòng đời vùi dập phũ phàng?
Dõi tầm mắt lại gần hơn nữa, một hình ảnh quen thuộc trong “Truyện Kiều” xuất hiện: đồng cỏ xanh, thế nhưng ở đây lại là:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Khác với cỏ non xanh mơn mởn trong tiết thanh minh, ở đây là cỏ rầu rầu ảm đạm trong ánh chiều. Nếu như bức tranh trong tiết thanh minh được điểm sắc trắng đầy sức sống thì ở nội cỏ chỉ có một màu “xanh xanh” đơn điệu, ảm đạm. Nó đơn điệu như chính những ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích, khiến cho Kiều có tâm trạng mệt mỏi chán chường, tuyệt vọng với một tương lai mờ mịt, hãi hùng.
Bức tranh thứ tư mở ra với một cảnh vừa thực, vừa ảo:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Có thể thấy, điểm nhìn của Kiều thu hẹp lại dần, từ xa xa cửa bể, đến dòng nước, đến đồng cỏ, và giờ đây, Kiều như soi vào chính tâm trạng của mình. Khung cảnh giờ đây thật dữ dội, có cả hình ảnh và âm thanh. Những cơn gió lớn dữ dội đập mạnh vào “mặt duềnh” khiến tiếng sóng kêu ầm ầm. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Ở phần đầu đoạn trích, cảnh vật xung quanh lầu hiền hòa, nên thơ bao nhiêu thì giờ đây, nó lại trở nên dữ dội vô cùng. Nghệ thuật đảo ngữ càng nhấn mạnh âm thanh của tiếng sóng đang gầm gào bên cạnh Thúy Kiều. Tiếng sóng không phải ở xa mà ở sát ngay bên nàng. Sóng gió như ẩn dụ cho bão tố cuộc đời với biết bao hiểm họa, bất trắc đang rình rập Kiều, chờ đợi để đổ ập xuống đời nàng. Nàng hoảng sợ, hãi hùng khi nghĩ về mình.
Bốn cảnh trong bức tranh tứ bình được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Và bao trùm lên tất cả những hình ảnh diễn tả nỗi buồn ấy, ta có thể đọc thấy một nỗi trông chờ tuyệt vọng, khắc khoải. Như vậy, bằng những vần thơ có sức lay động, khơi gợi sự đồng cảm của con người và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, tác giả đã diễn tả chân thật nỗi khát khao cuộc sống, nỗi khát khao tình người của Thúy Kiều.
Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi cảnh thiên nhiên trong đoạn đã diễn tả một sắc thái tình cảm khác nhau của Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tạo thành bức tranh tâm trạng, phản ánh một cách chân thực, sinh động hoàn cảnh cô đơn và tội nghiệp của Thúy Kiều cùng tân trạng buồn bã, lo âu, sợ hãi của nàng. Đằng sau sự thành công của bút pháp tả cảnh ngụ tình ấy là một trái tim yêu thương vô hạn với con người, là sự đồng cảm, sẻ chia xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.
Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Trích Truyện Kiều Của Nguyễn Du.
Đề bài: Soạn bài Kiều ở Lầu Ngưng Bích Tiết: Tên bài: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH Giáo viên dạy: Đối tượng học sinh: Lớp 9 Thời gian dạy: Mục tiêu bài học _ Giúp học sinh: + Hiểu được cảnh ngộ éo le, đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích. + Chỉ ra được đặc trưng và vai trò của bút pháp “ước lệ tượng trưng” + Rèn luyện kĩ năng đọc tác phẩm theo đặc trưng thể loại. Tiến trình dạy học Phân tích sáu câu thơ đầu: Khung cảnh thiên nhiên và cảnh ngộ của …
Đề bài: Soạn bài Kiều ở Lầu Ngưng BíchTiết:
Tên bài: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
Giáo viên dạy:
Đối tượng học sinh: Lớp 9
Thời gian dạy:
Mục tiêu bài học
_ Giúp học sinh:
+ Hiểu được cảnh ngộ éo le, đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích.
+ Chỉ ra được đặc trưng và vai trò của bút pháp “ước lệ tượng trưng”
+ Rèn luyện kĩ năng đọc tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Tiến trình dạy học
Phân tích sáu câu thơ đầu: Khung cảnh thiên nhiên và cảnh ngộ của Thúy Kiều nơi lầu Ngưng Bích
+ “Khóa xuân”: Chỉ tình trạng mất tự do, cảnh tù đầy, giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích.
+ Hình ảnh thiên nhiên: non xa, trăng gần, bát ngát…. Gợi ra không gian rộng lớn nhưng vắng lặng, u buồn để gợi ra cái cô độc, buồn bã của Kiều.
+ Hình ảnh “mây sớm”, “đèn khuya” để gợi ra vòng tuần hoàn của thời gian, sự lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.
2.Tám câu thơ tiếp theo: Nói về nỗi nhớ thương của Kiều dành cho những người thân
+ Bốn câu thơ đầu tiên là nỗi nhớ về chàng Kim: Nỗi xót thương vô hạn khi nghĩ về Kim Trọng, tưởng tượng đến cảnh chàng phải chờ đợi mỏi mòn, vô vọng khi trông ngóng tin tức về mình
” Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những dày trông mai chờ”
Xót xa về thân phận mình khi đã bị nhúng “bụi trần”, mặc cảm về tình cảnh và con người của mình.
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Bốn câu thơ sau hướng về bố mẹ: Thương bố mẹ đã tuổi “chiều tà” nhưng lại không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng. Và cả nối trông ngóng đứa con xa nơi đất khách quê người.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Nhớ về Kim Trọng trước, nhớ về bố mẹ sau là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của ngòi bút Nguyễn Du, bởi:
* Với chàng Kim: Mối tình còn đang dang dở, Thúy Kiều chưa kịp nói lời li biệt nên chàng Kim vẫn trông ngóng, chờ đợi. Điều này làm Kiều day dứt khôn nguôi.
* Với cha mẹ, nàng đã kịp phần nào báo hiếu. Mặt khác, bên cạnh cha mẹ còn có Thúy Vân và Vương Quan nên phần nào có thể yên tâm.
3.Tám câu thơ cuối: Khung cảnh hòa quyện với tâm trạng của con người
Bức tranh thiên nhiên nhúng màu tâm trạng của Kiều. Góp phần thể hiện được từng sắc thái tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.
+ Nỗi nhớ thương đến cha mẹ
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa”
+ Buồn về tình cảnh éo le, nổi trôi của chính mình.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
+ Dự cảm bất an về tươi lai, về quãng đường đầy biến cố sắp tới “
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nghệ thuật được sử dụng: bút pháp “ước lệ tượng trưng”, “ngụ cảnh tả tình”
Tổng kết
Về nội dung:+ Khắc họa tình cảnh đầy éo le, bế tắc của Thúy Kiều nơi lầu Ngưng Bích.
+ Nỗi nhớ thương hướng về chàng Kim, người thân
+ Dự cảm về những biến cố trong tương lai
Về nghệ thuật: + Bút pháp “ngụ cảnh tả tình”
Luyện tập
Cho thuê phòng trọ Cho thuê phòng trọ hà nội Cho thuê phòng quận 7 Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ
Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Của Nguyễn Du
1. Tóm tắt nội dung bài học
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt qua bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Đoạn thơ tả cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.
1.2. Nghệ thuật
Tác giả đã thành công ở bút pháp ước lệ, ẩn dụ, so sánh.
Tả cảnh ngụ tình, trong cảnh tình đều hàm chứa và lộ rõ yếu tố cao trào của bi kịch
Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.
2. Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
2.1. Soạn bài tóm tắt
Câu 1: Em hãy tìm hiểu cảnh thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu? Đặc điểm không gian trước lầu Ngưng Bích? Thời gian qua cảm nhận của Kiều? Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Thúy Kiều đang ở trong hoàn cảnh, tâm trạng như thế nào? Từ ngữ nào góp phần diễn tả tâm trạng ấy?
Không gian: mênh mông, hoang vắng, cô đơn, bốn bề bát ngát, cồn cát im lìm, ánh trăng làm bạn.
Thời gian: từ sáng đến khuya, sự quay vòng của thời gian.
Kiều đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
⇒ Tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.
Câu 2: Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều. Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ đến ai? Nàng nhớ ai trước, ai sau? Nhớ như thế có hợp lí không? Vì sao? Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh của tác giả để làm sáng tỏ điều đó? Em có nhận xét gì về tấm lòng của Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng.
Trong cảnh ngộ của mình, Kiều nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Bởi, trước khi cách xa nàng đã lo được cho gia đình nhưng với người mình thương, Kim Trọng, chàng lại chưa biết tin gì về gia biến của nhà nàng và nàng đau đớn, day dứt vì không giữ được lời thề.
Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh: nhiều hình ảnh ước lệ (chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử,… từ ngữ thể hiện được tâm trạng đớn đau, day dứt với Kim Trọng, nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ.
Thúy Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo. Nàng có tâm hồn cao đẹp, luôn nghĩ cho người khác dù mình đang cảnh mất tự do, cô đơn.
Câu 3: Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng. Cảnh vật ở đây là thực hay hư? Mỗi cảnh vật có nét riêng lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều? Em hãy phân tích và chứng minh điều đó? Em có nhận xét gì về cách dùng điệp ngữ của Nguyễn Du trong tám câu thơ cuối? Cách dùng điệp ngữ ấy diễn tả tâm trạng như thế nào?
Cảnh vật là hư, đây là tâm trạng chứ không phải cảnh thực. Mối cảnh có nét riêng đồng thời lại có nét chung diễn tả tâm trạng của Kiều.
Cánh buồm nhỏ xa xăm vô định như cuộc đời nàng giữa biển đời vô hướng.
Cánh hoa bị vùi dập như số kiếp trôi nổi của nàng.
Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời nàng tẻ nhạt.
Gió cuốn, sóng ầm ầm chính là dông bể cuộc đời, một nỗi bàng hoàng lo sợ.
Cách dùng điệp từ: điệp từ “buồn trông” lặp lại bốn lần ở đầu mỗi câu lục. Đôi mắt buồn nhìn và bao trùm lên hết thảy cảnh vật. Kết hợp không gian xa đến gần, thu vào tâm tư người con gái nỗi cô đơn, sầu nhớ, đau đớn và lo sợ.
Câu 1: Em hãy tìm hiểu cảnh thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu?
Đặc điểm không gian trước lầu Ngưng Bích?
Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều?
Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Thúy Kiều đang ở trong hoàn cảnh, tâm trạng như thế nào? Từ ngữ nào góp phần diễn tả tâm trạng ấy?
Kiều bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích: khoá xuân.
Vẻ mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trăng gần… Đúng là: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.
Câu 2. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều.
Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ đến ai? Nàng nhớ ai trước, ai sau? Nhớ như thế có hợp lí không? Vì sao?
Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh của tác giả để làm sáng tỏ điều đó?
Em có nhận xét gì về tấm lòng của Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng.
Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này vừa phù hợp quy luật tâm lý (những người trẻ tuổi bao giờ cũng nhớ người yêu trước), vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ Kim Trọng, nàng nhớ lời thề ước dưới trăng, thương chàng Kim Trọng đêm ngày đau đáu trông chờ uổng công vô ích.
Tiếp đó, Nàng nhớ đến cha mẹ. Nàng thương xót cha mẹ già yêu mà nàng không được chăm sóc. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ. Cũng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ lại khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau.
Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Những suy nghĩ này cho thấy Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người phụ nữ có tấm lòng vị tha đáng trọng.
Câu 3. Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng.
Cảnh vật ở đây là thực hay hư? mỗi cảnh vật có nét riêng lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều? Em hãy phân tích và chứng minh điều đó?
Em có nhận xét gì về cách dùng điệp ngữ của Nguyễn Du trong tám câu thơ cuối? Cách dùng điệp ngữ ấy diễn tả tâm trạng như thế nào?
Tám câu cuối bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc, Nguyễn Du khắc họa sinh động những cung bậc của tâm trạng buồn là do đang diễn ra trong lòng Kiều. Cứ hai câu là một nét tâm cảnh hiện ra. Nhìn cánh buồm thấp thoáng mà thấy sự bơ vơ đau khổ.
Trong cảnh hoa trôi man mác trên ngọn nước mà buồn đau cho số phận mình tan tác trôi giạt, vô định. Trong nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh bao la của trời đất mà thương cho cuộc đời này đang héo hắt tàn lụi, cho kiếp người hữu hạn, nhỏ bé. Nghe tiếng gió cuốn, tiếng sóng kêu mà hãi hùng ghê sợ ám ảnh những tai họa khủng khiếp đang bủa vây sắp giáng xuống đầu nàng.
Nỗi buồn sâu sắc của Kiều mỗi lúc càng được tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong suốt tám câu thơ. Cụm từ “buồn trông” mở đầu câu thơ thành điệp khúc của đoạn thơ là điệp khúc của tâm trạng Thúy Kiều.
3. Một số bài văn mẫu về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
4. Hỏi đáp về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Hướng dẫn soạn Kiều ở lầu Ngưng Bích
Hướng dẫn soạn bài ” Kiều ở lầu Ngưng Bích ” – Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du – Văn lớp 9
Hướng Dẫn Học Về Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích
1. Vị trí và kết cấu đoạn tríchĐọan trích này nằm ở phần thứ hai của truyện. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Thuý Kiều đã tự tử nhưng không chết. Sợ mất cả vốn lẫn lãi, mụ Tú Bà xảo trá vờ hứa hẹn đợi Thuý Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng. Mụ đưa Kiều ra an dưỡng ở lầu Ngưng Bích để chuẩn bị đẩy nàng rơi vào một âm mưu mới, hồi buộc nàng phải ra tiếp khách cho mình.
Có thể phân chia đoạn trích theo bố cục sau:– Sáu câu thơ đầu: khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích.– Tám câu thơ tiếp: nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu, cha mẹ.– Tám câu thơ cuối: tâm trạng Thuý Kiều được thể hiện qua bức tranh tâm cảnh.
2. Khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích Không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:– Kiều bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích: khoá xuân.– mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trũng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trứng gần… Đúng là: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.– Bao nhiêu cảnh trồng, máy sớm dèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm hơn tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.
3. Nỗi nhớ thương của Kiều– Kiều nhớ tới Kim Trọng, tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờ
Vì tình yêu nên Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận:
Bèn trời góc bể bơ vơTấm son gột rửa bao giờ cho phai.
– Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con: Xót người tu của hôm mai, ngậm ngùi vỉ tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian. Day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành: Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ.Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trang cành ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng:
+ Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ.+ Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình.
4. Tâm trạng Thuý Kiều được thể hiện qua bức tranh tâm cảnhỞ tám câu thơ của đoạn trích, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh được miêu tả không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tình là đích của sự miêu tả. Đoạn trích này là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho nghê thuật ấy, nhất là sự vận dụng thành công trong tám câu thơ cuối đoạn.
Trong những câu thơ này, cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng.– Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cồm của Thuý Kiều:
+ Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:
Buồn trông của bể chiếu hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buổi chiều thường gợi nồi buồn nhớ bâng khuâng, đối diện với cái mênh mông của biển cả lại càng thấy cô đơn, rợn ngợp hơn. Và hình ảnh “cánh buồm xa xa” gợi những nẻo đường về với quê hương xứ sở.
+ Nhớ người yèu, xót xa cho tình duyên lờ dở, tủi buồn cho số phận thì cảnh gợi những vật chia lìa, chìm nổi:
Buồn trông ngọn nước mới sa,Hoa trồi man mác biết là về đâu.
+ Buồn bã, chôn chân với chuỗi ngày đơn điệu, tẻ nhạt chốn lầu xanh:
Buồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanh
+ Từ thực tại đau buồn, Kiều có một dự cảm hãi hùng về tương lai đầy sóng gió:
Buồn trồng gió cuốn một duyềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Những từ láy đã góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật. Cụm từ Buồn trông (Nguyễn Du mượn trong ca dao) lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nổi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên.
Từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cành là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Mong rằng bài viết trên của chúng tôi sẽ giúp các bạn có thêm nhiều kiến thức bổ ích!
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Tích Đoạn Trích “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích” Của Nguyễn Du. trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!