Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương (Bài 2). mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc chồng con.
Thương vợ
(Tú Xương)
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
I. Tác giả.
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trên con đường khoa cử: “Tám khoa chửa khỏi phạm trường quy”. Chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào quê ông.
Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ Nam, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học cận đại của dân tộc.
II. Chủ đề.
Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc chồng con.
III. Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo.
Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là người giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm” buôn bán kiếm sống ở “mom sông” cảnh đầu chợ bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan chẳng là cùng đinh “Ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi”. Các số từ “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đủ. Bà Tú vẫn cứ ”nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “Giày giôn anh dận, ô Tây anh cầm”. Câu thứ hai rất hóm hỉnh.
Câu 3, 4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” – thân phận lam lũ, vất vả “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà tú thì lặn lội… khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.
Câu 5, 6 tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: ”một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hi sinh. Có sự cam chịu số phận, có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hi sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công “.
Tóm lại, bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng còn. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.
IV. Nỗi niềm nhà thơ.
Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa phẫn nộ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở tây dở ta, nửa phong kiến, nửa thực dân: khi mà đạo lí suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ở bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú – Con tấp tểnh đi bồi – Khách hỏi nhà ông đến – Nhà ông đã bán rồi”.
Câu 8 thầm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như không?”. “Như không” gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi đau thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!
V. Kết luận:
Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và cả tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu niêm và vần đến phép đối được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình, vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là một hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.
chúng tôi
Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Nhà Thơ Tú Xương.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý 1. Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương hay Tú Mỡ, là một trong những nhà thơ có cách viết trào phúng, hài hước.
– Giới thiệu về bài thơ “Thương vợ”.
2. Thân bài: a. Hình ảnh bà Tú * Hai câu thực: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”
– Công việc: buôn bán
– “Nuôi đủ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ.
* Hai câu đề: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
– Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận vất vả, cực khổ, của bà Tú cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ
– Ba từ “khi quãng vắng” đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm.
– Câu thơ dùng phép đảo ngữ (đưa từ “lặn lội” lên đầu câu) và dùng từ “thân cò” thay cho từ “con cò” càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Không những thế, từ “thân cò” còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận nữa. Lời thơ, vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.
– Câu thứ tư làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
+ Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ.
+ “Buổi đò đông” hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm “khi quãng vắng”.
+ Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng” phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt trong thời buổi khó khăn.
* Hai câu luận “Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
– Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
+ “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.
+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.
+ Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình.
+ “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.
b. Nỗi lòng của tác giả
– Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.”
+ Ý nghĩa của lời chửi là tác giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của bản thân mình. Nhưng đó lại là một lẽ thường tình trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, dám tự nhận khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là một người có nhân cách đẹp.
3. Kết bài:
– Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ.
Bài mẫu Bài tham khảo số 1
Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà” …
Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình.
Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.
Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.
Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.
Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn.
Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu,… Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:
… Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; … Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.
Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.
Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công.
Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận/ dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.
Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.
Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn mướn không công. Thân này ví biết đường này nhẽ Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Bài thơ nổi bật là hình ảnh bà Tú – hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.
Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.
Lập Dàn Ý Phân Tích Phong Cách Thơ Tú Xương Thể Hiện Qua Bài Thương Vợ
A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý
B. DÀN BÀI CHI TIẾT
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về nhà thơ Tú Xương và bài thơ Thương vợ
Trần Tế Xương (1871 – 1907), thường gọi là Tú Xương, quê ở Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Thơ Tú Xương nổi bật ở hai mảng trào phúng và trữ tình (còn gọi là hiện thực và trữ tình).
Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động viết về bà Tú. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Tú Xương dành cho người vợ tao khang.
Dẫn dắt vấn đề: Thương vợ – một trong những bài thơ hay, thể hiện rõ rệt phong cách thơ Tú Xương.
2. Thân bài
Đề tài: Viết về bà Tú (vợ ông Tú). Bà Tú là Phạm Thị Mẫn thuộc hàng tiểu thơ con nhà khoa bảng. Lấy ông Tú bà trở thành người vợ tảo tần, yêu chồng thương con, biết trọng tài năng và cá tính của ông Tú.
Chủ đề: Lòng thương quý, biết ơn, trân trọng của Tú Xương đối với vợ – bà Tú, hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống, cần cù, đảm đang, giàu tình thương và đức hi sinh.
Phong cách trữ tình
Sự lam lũ, vất vả, tần tảo của bà Tú được thể hiện ngay trên câu chữ của bài thơ với những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống của người bình dân. Điều này được thể hiện rõ qua cách vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ: lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước, năm nắng mười mưa, một duyên hai nợ…
Những hiểm nguy luôn rình rập lấy bà: thể hiện qua hai câu thực “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”: buôn bán ở mom sông cũng thật nhiều nhiêu khê , vất vả.
Đồng nhất trực tiếp thân cò vào thân phận người vợ. Không chỉ gợi sự liên tưởng mà Tú Xương đã thể hiện ở đó sự cảm thương sâu sắc đối với bà Tú.
Các từ láy: lặn lội, eo sèo được đảo lên trước có tác dụng làm nổi bật lên hình ảnh bà Tú trong công việc buôn bán hàng ngày.
“Lặn lội”: gợi sự vất vả, lam lũ, cần mẫn.”Eo sèo” là quang cảnh chợ đông, tiếng người mua kẻ bán chèo kéo ồn ào, phức tạp (Bà Tú vốn xuất thân là tiểu thư khuê các mà bây giờ phải hòa vào môi trường hỗn tạp) ⇒ sự hi sinh vì chồng vì con ⇒ Ông Tú vừa cảm phục và vừa xót xa cho bà Tú.
Nêu lên những đức tính cao đẹp của bà Tú: “Nuôi đủ năm con với một chồng”
Mỗi chữ “nuôi” đã đủ để nói lên nhiều điều về bà Tú. Hai vế câu với số lượng năm con và một chồng – một số lượng khá đông, đặt lên vai bà Tú đã cho thấy sự đảm đang, tần tảo của bà.
Ông Tú cũng hiểu được lòng vợ nên không gộp mình chung với con mà tách riêng ra vừa là để đùa vui mà cũng là muốn tỏ lòng biết ơn người vợ của mình.
Cũng có người hiểu rằng: việc chia làm hai vế “năm con” với “một chồng” lại cân xứng với nhau về gánh nặng mà bà Tú đã phải gồng gánh nuôi nấng. Câu thơ là một sự thật, bởi nuôi ông Tú đâu chỉ có cơm hai bữa mà còn có tiền chè, tiền rượu. ⇒Câu thơ đã nói lên được sự thấu hiểu, biết ơn của ông với vợ mình. Đồng thời, câu thơ cũng nói lên niềm hạnh phúc của một người vợ tần tảo, hi sinh tất cả cho chồng con. Đó là niềm hạnh phúc của bà Tú được Tú Xương nói hộ.
Nỗi lòng của nhà thơ:
Nỗi lòng thương vợ của Tú Xương được thể hiện thành công qua bài thơ. Tựa đề Thương vợ chưa thể hiện được đầy đủ tình thương của nhà thơ đối với vợ cũng như chưa toát lên được nhân cách của nhà thơ. Tú Xương không chỉ thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ biết lên án thói đời mà còn tự trách mình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng của nhà thơ đối với bà Tú.
Trào phúng, khôi hài, tự cười mình:
Vừa đọc thì ta cứ ngỡ hai câu kết là tiếng chửi, là lời than trách của bà Tú. Nhưng thực tế đó là sự nhập thân, hóa thân của Tú Xương vào nỗi khó nhọc của bà Tú để chửi đời và để chửi mình.
Việc tự chửi mình như Tú Xương đã góp phần làm tăng vẻ đẹp của người lao động mà bà Tú là điển hình.
Việc nhận ra sự vô dụng và tự trách của mình đã cho thấy được nhân cách của Tú Xương.
Nguyễn Đình Chú trong cuốn Thơ văn Tú Xương đã viết: “Có người nhận xét rằng: Tú Xương là một “thứ con đặc biệt” của vợ, tự nhận mà không chút ngượng ngùng sĩ diện. Và càng thấy vợ vất vả bao nhiêu với bố con, Tú Xương càng thấy mình đoảng, là vô tích sự bấy nhiêu! Trong cơn hối hận chả có cách gì tạ lại công ơn của vợ, Tú Xương chỉ buột một lời tự chửi. Chửi cái anh chồng vô tích sự là mình. Chửi luôn cả thói đời bạc bẽo đã đẻ ra cái loại chồng đoảng như mình nốt. Một tiếng chửi mà để lại nhân cách, nhân phẩm là vậy”.
Có đặt tình cảm và thái độ ấy vào hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhà thơ – cái xã hội mà người phụ nữ, người vợ bị coi thường, bị chi phối bởi đạo lí tam tòng tứ đức, bởi lề giáo phong kiến nặng nề – mới thấy hết sự ân tình, đằm thắm của nhà thơ đối với vợ, mới thấy được sự hàm ơn của nhà thơ đối với bà Tú – một điều hiếm thấy trong thơ ca cổ. Khả năng biểu đạt của ngôn từ trong bài thơ Thương vợ là ở đấy. Giá trị của bài thơ cũng ở đấy.
3. Kết bài:
Nêu tóm lược phong cách nghệ thuật thơ của Tú Xương qua bài Thương vợ
Nguyễn Tuân từng nhận xét: “…nhưng tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đất thơ là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình”. (Văn nghệ, tháng 5, 1961)
Gợi mở vấn đề
Phân Tích Bài Thơ Vịnh Khoa Thi Hương Của Tú Xương
[Văn mẫu học sinh] Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Tú Xương
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả tác phẩm
2. Thân bài
a. Hai câu đề: Sự xáo trộn ở trường thi
-Thời gian: Ba năm àkì thi không có sự thay đổi vè thời gian
– Hình thức: Thi lẫn: thi sử không rõ ràng, dấu hiệu của sự bất thường, lộn xộn
b. Bốn câu tiếp theo: Quang cảnh trường thi nhốn nháo, ô hợp
-Sĩ tử: lôi thôi, vai đeo lọà phong thái lộn xộn
-Quan lai: ậm oẹ, miệng thét loaà không có quyền uy, tôn nghiêm
– Trường thi đầy những cảnh chướng tai, gai mắt: sĩ tử nhếch nhác, mụ đầm lôi thôi, váy lê quét đất.
c. Hai câu cuối:Tâm trạng của tác giả thức tỉnh các sĩ tử và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất nhà tan.
Câu thơ tự vấn, vừa đối thoại, vừa thức tỉnh là lời tâm sự đầy đau xót và chua chát trước thực tại đất nước
3. Kết bài
Tổng kết về nội dung và nghệ thuật
Bài thơ như sau:
Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Câu thơ mở đầu như là lời thông báo của tác giả về thời gian địa điểm dự thi: thời gian ba năm đây là khoảng thời gian khá dài để cho các sĩ tử ôn luyện về kiến thức để chuẩn bị sẵn sàng cho kì thi sắp tới, sự thay đổi trong bài thơ không chỉ về thời gian mà còn về thành phần thi đó là trường Nam thi với trường Hà – trường Nam và trường Hà là hai trường thi Hương ở Bắc Kì thời xưa. Thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi Hà Nội bị bãi bỏ. Từ năm Bính Tuất (1886), các sĩ tử trường Hà xuống thi chung ở trường Nam Định. Trần Tế Xương cũng tham dự kì thi. Đây là một trong những nét mới trong quá trình tổ chức thi, bởi theo lệ thường hàng năm các trường sẽ thi tách biệt với nhau nhưng những năm sau này lại gộp lại thi chung. Hai câu thơ mở đầu mang tính chất thông báo nhưng thực sự có những dấu hiệu khiến cho người đọc phải bận tâm, lưu ý mường tượng đến cảnh thi cử cực nhọc, lộn xộn, phức tạp. Những câu thơ tiếp theo dần hé lộ khung cảnh trường thi đầy nhốn nháo:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Khi tổ chức một kì thi người tham dự thi và người đi thi phải thật nghiêm túc chấp hành quy chế thi và những quy định trong phòng thi, nhưng khung cảnh đi thi được Tế Xương miêu tả hoàn toàn khác biệt với lối thi cử quy cử ngày xưa. Tác giả sử dụng từ lôi thôi để chỉ sự nhếch nhác, sự luộm thuộm, sự thiếu nghiêm túc của những sĩ tử đi thi, đối với họ đi thi là một việc gì đó vô cùng dễ dàng và không tốn quá nhiều sức lực, nó hoàn toàn khác biệt với những sĩ tử ngày xưa họ xem chuyện thi cử là một chuyện trọng đại là đại sự trong cuộc đời, nhưng ở đây sống trong thời đại Mưa Âu gió Mĩ Tế Xương đã miêu tả một cách châm biếm hình ảnh những người đi thi. Phép đảo, từ láy tượng hình ( lôi thôi) nhấn mạnh hình ảnh nhếch nhác, bê tha, luộm thuộm, vất vả, bệ rạc của các sĩ tử. Hành trang của các sĩ tử không phải là bút nghiên, đèn sách mà là bao đồ đạc lỉnh kỉnh cho thấy phong thái không đường hoàng, đĩnh đạc, tự tin. Các sĩ tử đi thi là thế vậy thì các quan coi thi như thế nào họ ậm ọe thét loa không chút xấu hổ, họ chỉ làm cho qua chuyện, khiến cho không khí thu cử bị phá vỡ, rối tung. Một lần nữa phép đảo ngữ và nghệ thuật láy từ ( ậm oẹ) lại phát huy tác dụng (nhấn mạnh hình ảnh người coi thi). Tiếng thét loa của vị quan coi thi chứng tỏ trường thi rất lộn xộn nhốn nháo, ồn ào, nhưng thảm hại thay, tiếng thét ấy lại cũng không ra hồn. Từ láy tượng thanh ậm oẹ vừa chỉ tiếng nói không rõ ràng, vừa chỉ sự hách dịch, ra oai, nạt nộ của tên quan trông thi. Quang cảnh trường thi thật là nhốn nháo ô hợp. Một hiện tượng nữa xuất hiện trong trường thì đó là hình ảnh quan sứ và hình ảnh mụ đầm, những hình ảnh này đã làm mất đi sự trang trọng, uy nghiêm của kì thi để tuyển chọn nhân tài.
Dường như khi đề cập đến vấn đề này, Trần Tế Xương vô cùng đau xót vì chính bản thân ông cảm thấy bất lực không thể kiểm soát được tình thế này. Trường thi trở thành nơi đón rước long trọng, một nơi ô hợp. Khoa thi của triều đình phong kiến có sự xuất hiện của vợ chồng quan Toàn quyền. Chi tiết này cho thấy chế độ khoa cử đang đi vào giai đoạn suy thoái, đang bị phong hoá bởi văn hoá phương Tây. Phép đối được sử dụng rất đắt. Lọng treo chốn trường thi, để che đầu cho các bậc đức cao vọng trọng lại bị đối với gấu váy của mụ đầm (Ở bài khác, ông viết Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng). Sự uy nghiêm, trang trọng chốn trường thi bị hạ bệ hết mức.
Một đất nước ngàn năm văn hiến lại có thể tổ chức một kì thi thiếu sự trang trọng đến thế, để lại sự ê chề nhục nhã cho một quốc gia, rồi từ đây chúng ta sẽ phải đối mặt với những người gây dựng đất nước như thế nào. Châm biếm mà đau đớn nhưng không thể không nói, không thể không lên tiếng bởi vì cảnh tượng diễn ra trước mắt quá lộn xộn, quá bất cập khiến bất cứ ai trông vào cũng cảm thấy xót xa, đau lòng. Chỉ bằng vài nét phác hoạ sắc sảo, Tú Xương đã dựng lại chính xác, sinh động khung cảnh hỗn độn, nhốn nháo của khoa thi Hương. Trường thi đầy những cảnh chướng tai gai mắt. Tất cả được miêu tả bằng giọng thơ châm biếm hài hước, sâu cay. Kinh nghiệm thi cử của bản thân đã giúp Tú Xương cảm nhận sâu sắc thực tế đó. Qua đây ta thấy được thái độ bất bình, khinh bỉ của nhà thơ trước những nhiễu nhương, đồi bại.
Những câu thơ tiếp theo, Trần Tế Xương như muốn kêu cứu, cầu xin ai đó giúp đỡ cho đất nước cứu vãn hình ảnh cho nước nhà, những đáp lại lời kêu gọi của tác giả, lời thơ hóa vào thinh không, không một lời đáp trả không một ca từ nào đủ sức nặng để có thể đáp lại những lời từ tận tâm can của chính ông. Đây cũng là cách tác giả bày tỏ nỗi đau của một người khi nước mất nhà tàn khi văn chương khoa cử xuống dốc trầm trọng không thể cứu vãn, hai câu thơ cũng khiến người đọc xót xa không kém:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Câu thơ đã thể hiện tâm trạng của tác giả thức tỉnh các sĩ tử và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất nhà tan. Câu thơ vừa là lời tự vấn, vừa đối thoại, vừa thức tỉnh là lời tâm sự đầy đau xót và chua chát trước thực tại đất nước. Lời thơ cất lên như lời kêu gọi thức tỉnh. Đối tượng được gọi là nhân tài đất Bắc – tức là những kẻ sĩ, trí thức, người có học, biết nhận thức. Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà – cảnh bát nháo, ô hợp chốn trường thi, cảnh đất nước rơi vào tay thực dân Pháp; sự nhục nhã của thân phận mất nước. Có lẽ không phải kẻ sĩ, trí thức nào cũng nhận thức được thực tại trớ trêu đó nên Tú Xương mới phải cất lời kêu gọi. Bằng cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, âm thanh đảo trật tự cú pháp kết hợp với việc để cho nhân vật trữ tình tự nhận thức, tự bộc lộ chính những suy nghĩ tâm trạng của mình, tác giả cho người đọc thấy được thái độ trọng danh dự và tâm sự lo nước thương đời của tác giả trước tình trạng thi cử trong buổi đầu chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Vịnh khoa thi Hương là một trong những tác phẩm độc đáo, nổi bật của Trần Tế Xương bởi đằng sau giọng thơ sắc, lạnh, tỏ vẻ hờ hững đến khinh mạn con người và cuộc đời là tấm lòng lo cho dân cho nước, không cống hiến bằng sức lực, Trần Tế Xương cống hiến bằng bút lực và trí tuệ của mình để vạch nên khung cảnh u ám, sầu thảm của đất nước vào những năm tháng bị thực dân chiếm đóng cùng với đó là sự nhu nhược của triều đình phong kiến.
Hoàng Bạch Diệp
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương (Bài 2). trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!