Cập nhật nội dung chi tiết về Nét, Nhịp Điệu Trong Tranh Van Gogh : Trường Đại Học Mỹ Thuật Tp.hcm mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nét, Nhịp Điệu Trong Tranh VAN GOGH
VINCENT VAN GOGH. Những đống cỏ khô (gởi Jonh Russell) khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút lau sậy, bút lông ngỗng, mực, than chì, trên giấy dệt, khổ 9,5×12,25 inches. Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia
Van Gogh, hoặc Vincent, vì ông thích được gọi với tên này hơn, đã viết cho người em là nhà buôn bán tranh nghệ thuật Theo vào đầu tháng 9 – 1880, khi ông vừa mới quyết định trở thành một họa sĩ: “Giờ đây anh nhìn sự vật với đôi mắt khác hơn trước lúc bắt đầu vẽ”. Ông đã diễn tả cảm quan của mình về sự vật một cách nhẹ nhàng như vậy. Cuộc triển lãm ”Vincent Van Gogh: The Drawing” do Viện Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam và Viện bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York tổ chức đã đem đến cho người xem một cái nhìn thú vị, tổng quát về những tác phẩm tạo hình đẹp nhất của nghệ sĩ tên tuổi Hà Lan này. Khoảng 100 trong hơn 1200 tác phẩm đang được lưu giữ của Vincent được chọn ra, nổi bật lên với sự diễn tả tính mãnh liệt của những cảm xúc không kìm nén được và được vẽ thành từng nhóm liên tiếp nhau, trong ba năm cuối đời của Vincent. Đây cũng là những tác phẩm mà các nhà tổ chức muốn đặt vào một tầm quan trọng lớn hơn: Chúng có thể làm tăng thêm sự hiểu biết, giá trị của những tác phẩm khác, nếu như những trải nghiệm phong phú nhất có thể có được ở cuộc triển lãm này được đặt trên khái niệm diễn giải về quá trình phát triển qua từng giai đoạn sáng tác của nghệ sĩ. Việc sắp đặt tại Viện bảo tàng Metropolitan được cân nhắc kỹ lưỡng, từ những nhãn tiêu đề đẹp, những bản văn viết trên tường đến những hiện vật trưng bày hỗ trợ như bút chì, bút lau sậy từng được họa sĩ sử dụng trong các bức vẽ đồ họa.
Vườn nho già và người đàn bà nông dân. Từ 20 đến 23-5-1980. Sử dụng cọ, dầu và màu nước, than chì trên giấy sọc, khổ 17,5×21,25 inches. Viện bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
Có thể hiểu được những nỗ lực của bà, trong một bối cảnh mà khuynh hướng chủ đạo bắt đầu từ giữa thế kỷ 19, xem một tác phẩm đồ họa cũng có giá trị ngang bằng với hội họa và điêu khắc. Và trước khi Van Gogh qua đời năm 1890, những họa sĩ không theo lối chính thống như Whistler, Ensor và Rodin đã trình bày những tác phẩm đồ họa trong các cuộc triển lãm. Tuy nhiên lịch sử nghệ thuật vẫn chưa lưu ý đến giá trị của rất nhiều bức vẽ hình. Trong bài viết có tựa đề “Nghệ thuật thế kỷ 19” do đồng tác giả Robert Rosenblum và H.W. Janson viết năm 1985 đều không có đánh giá nào về các bức vẽ hình. Cho nên, việc khảo sát một cách nghiêm túc về các tác phẩm đồ hoạ thế kỷ 19 vẫn chưa được thực hiện. Gần một nửa số tác phẩm trong triển lãm Những chặng đường sáng tác của Van Gogh năm 1935 tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York là tranh đồ họa.
Những cây Birch xén ngọn. Nửa đầu tháng 3-1884. Sử dụng bút mực, than chì được nhấn thêm với màu nước loãng trên giấy dệt, khổ 15,5×21,37 inches
Nhưng vào năm 1965, khi MOMA xuất bản tác phẩm kinh điển của John Rewald “Hậu trường phái Ấn tượng: Từ Van Gogh tới Gauguin”, những tranh vẽ hình của Vincent, dù được ca ngợi, vẫn không nhận được sự quan tâm bằng những bức tranh đầy màu sắc lộng lẫy của ông. Nhìn chung, những bản vẽ hình không có chỗ để phát triển so với những bức tranh nhiều màu sắc trong suốt thế kỷ 20. Ví dụ như sách nghệ thuật đầy rẫy những phiên bản mầu và các viện bảo tàng tràn ngập các tác phẩm hội họa đầy màu sắc được trưng bày. Nhưng hoàn cảnh mới không đến nỗi quá bi thảm, ở chỗ ít ra thì nghệ thuật vẽ hình của Vincent đã được quan tâm: Cuộc triển lãm “Van Gogh ở Arles” năm 1984 tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan do Ronald Pickvance tổ chức đã gây được sự chú ý trong cách thức trình bày để cho những bản vẽ hình cũng có tầm quan trọng như những bức sơn dầu. Hoặc như cuộc triển lãm tưởng niệm 100 năm ngày mất của Vincent tại hai Viện Bảo tàng Otterlo và Amsterdam, với qui mô lớn tương tự, dù đáng tiếc là các bản vẽ hình và các bức tranh sơn dầu được triển lãm riêng rẽ tại hai viện trên. Mặt khác, catalogue cho hai cuộc triển lãm đều được trình bày đẹp, lôi cuốn sự chú ý của người xem và thúc đẩy họ quan tâm đến Vincent nhiều hơn nữa.
Có hai khuynh hướng được đặt ra: Một là xuất bản các bản vẽ hình của Vincent nhiều hơn. Hai là tăng thêm sự phân tích tinh tế của các nhà chuyên môn về giá trị đáng trân trọng của chúng. Từ năm 1996, mọi tư liệu và chi tiết về gần 500 bản vẽ hình của Vincent luôn có sẵn, được đánh giá trong catalogue đặc biệt dành cho các học giả. Quyển thứ tư và là quyển cuối cùng của bộ catalogue này, theo dự định sẽ ra mắt vào năm tới. Cũng từ năm 1996, để thu hút nhiều người xem hơn, học giả David Brooks đã thu thập những bản vẽ hình và tranh của Vincent bằng hình ãnh kỹ thuật số cho một catalogue trực tuyến www.vggallery.com.
Những con thuyền trên biển. Khoảng 30-5 đến 5-6-1888. Sơn dầu trên vải bố, khổ 17,38×20,88 inches. Viện Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Pushkin, Moscow
Tuy nhiên cho tới nay, trước khi thời gian làm phai màu các tác phẩm, Brooks vẫn chưa khởi sự chuyển tải những hình ảnh có thể còn giữ được gần với nguyên dạng ban đầu. Theo như Van Heutgen giải thích trong tác phẩm “Vincent van Gogh: The Drawing”: Những người xem tranh ngày nay cần hiểu rằng nhiều bản vẽ của Vincent còn lại đến hôm nay bị cảm nhận khá sai lạc là bản vẽ phác thảo. Vì thời gian, một số vết mực đen đã chuyển thành mầu nâu, những loại mực aniline mà tác giả sử dụng trong nhóm tác phẩm 1888 đã mờ gần như mất hẳn; phức tạp hơn, trong một số bản vẽ dùng hai loại mực khác nhau thì cả hai đều bị hư hại, có khi một loại mực bị phai còn loại kia ngả mầu sậm hơn. Nhận thấy sự hư hại thì dễ nhưng tìm ra phương tiện phục chế mới là khó. Cuối cùng, Van Heutgen nhận được sự trợ giúp của nhà khoa học Roy S. Bern để tái sản xuất chính xác những loại mầu dùng trong các bản gốc sử dụng loại giấy xám xanh rất dễ bạc mầu. (Gần đây, Berns – giáo sư tại Học viện Công nghệ Rochester, đã cung cấp những bức hình được hiệu chỉnh màu tương tự cho một triển lãm ở Seurat tại Học viện Nghệ thuật của Chicago). Bên cạnh việc phục chế bản vẽ, Van Heutgen cho tái sản xuất bản in mầu những cuốn sách năm 1920. Mặc dù những người phụ trách tuyển chọn những bức vẽ còn trong tình trạng tốt nhất cho bài khảo cứu này, nhiều bản vẽ độc đáo trong catalogue cho thấy màu sắc chắc đã đổi thay nhiều. Nhưng một chi tiết thú vị khác lại được phát hiện: Khi so sánh với bản vẽ tham gia thuộc Vellekoop, có những bằng chứng để tin rằng một số các bản vẽ ngả sang tone nâu, thực hiện tại viện tâm thần nơi Vincent ở năm 1889, được thể hiện một cách sáng tạo bằng loại mực có mầu dễ phai. Nếu vậy, những bản vẽ phủ sơn dầu mỏng năm 1889 hoá ra tốt hơn nhiều những bản vẽ mực. Catalogue còn có phần phụ lục rất hữu ích được thực hiện bởi nhân viên bảo quản tư liệu của Viện bảo tàng Metropolitan, Marjorie Shelly, nguời cung cấp một số những loại mực khác nhau trong buổi phát hành bản vẽ Vincent.
Những con thuyền trên biển (gởi Jonh Russell). Khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút lau sậy và mực, than chì trên giấy dệt, khổ 9,5×12,5 inches. Viện bảo tàng Solomon R.Guggenheim , New York
Sự thiếu hiểu biết của chúng ta về mục đích sử dụng màu sắc của Vincent, chưa tệ bằng sự bàng quan của chúng ta về những gì ông muốn đạt tới trong những tác phẩm đầy khát vọng thể hiện trên mặt giấy. Xuất thân từ một gia đình buôn bán tranh nghệ thuật, chắc hẳn ông đã biết rõ sự lựa chọn gắt gao trên thị trường về các bản vẽ hình. Bắt đầu trong năm 1880, những lá thư của Vincent thường xuyên cho thấy ông muốn kiếm sống bằng việc bán các bản vẽ minh họa cho sách hoặc cho các tạp chí đương thời như “The Illustrated London News” hoặc “The Graphic”, hai xuất bản phẩm bằng tiếng Anh được ông ưa chuộng. Kế đến, đầu năm 1882, người chú buôn bán tranh nghệ thuật của ông, Cornelis van Gogh, đặt cháu mình làm các bức vẽ của nhà Hague, một dự án có tầm quan trọng rất lớn đối với hoạt động của các phòng tranh nghệ thuật thời ấy giữa thế kỷ 19. Trong khi chưa có bản vẽ sao chụp nào được xuất bản để giao cho ông chú, Vincent phát hiện ra khả năng khả năng in thạch bản (lithographic) dựa trên những hình vẽ minh họa cuối năm 1882. Ngoài ra, có thể coi như ông đã hoàn thành những mong ước ban đầu về nghệ thuật khi tạo ra những bản vẽ cho sách hoặc các tác phẩm tiêu biểu từ phiên bản với những tập bản vẽ mà ông gửi cho Bernard và Russell năm 1888, những bản vẽ mà cuối cùng lại trở thành phiên bản cho những bức họa của ông. Hơn nữa, vì quá trình 7 năm làm việc miệt mài cho Công ty Nghệ thuật và sao chép Nghệ thuật quốc tế Goupil & Cie, nên Vicent là một người thành thạo về phiên bản nghệ thuật.
Mùa gặt ở Provence (gửi Jonh Russell) khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút lau sậy
Ông treo các phiên bản lên tường trong căn phòng ở Dordrecht, nơi ông làm việc cho một người bán sách một thời gian ngắn năm 1877. Tại Amsterdam, nơi ông chuyển đến sau đó để nghiên cứu thần học, ông tiếp tục mua những tranh ảnh không đắt lắm về phủ lên tường. Cũng chẳng khác gì mấy khi ông ở nhà Hague đầu năm 1881, dù lúc đó có thêm người khởi xướng, những bản vẽ của ông góp lên tường là các hình sao chép từ những cuốn tạp chí tiếng Anh. Dù thời kỳ đầu hay sau này, có thể đoán ra được vì kiểu cách thể hiện như bản khắc của các bản vẽ, với rất nhiều những nét bút, cọ ngắn trông như những vết khắc cho đường viền cũng như để tả chất hay khối. Dù là các bức vẽ ghi lại những nơi nổi tiếng, nhiều bức trong số những bức ấn tượng nhất ở thời kỳ đầu tại triển lãm Metropolitan trông như những bản sao từ những bản khắc tưởng tượng in bằng những mầu mực rất ăn với nhau. Khi đến Paris năm 1886, Vincent cố gắng phát triển một kiểu vẽ ít các đường vạch hơn. Một mặt, ông cố gắng để trở nên thành thạo phong cách vẽ theo truyền thống học thuật của Cormon. Mặt khác, ông chăm chút vào cách thể hiện ít đường vạch hơn, nhiều mầu sắc hơn mà các nghệ sĩ chuyên tranh khắc gỗ người Nhật rất ưa chuộng, những người mà tác phẩm của họ khiến Vincent nghiên cứu hàng giờ liền tại phòng tranh nổi tiếng của Siegfried Bing. Trong khi triển lãm Metropolitan hầu như lờ đi những bản vẽ mang tính học thuật của ông, những bản vẽ màu nước kiểu Paris lai Nhật này hiện đang gây sửng sốt cho người xem, một kiểu”Thoát ly Lục địa” giữa giai đoạn đầu và sau này trong việc vẽ phác họa của Vincent.
Những cây bách. Từ 20 đến 25-6-1889. Sử dụng bút lau sậy, bút mực, than chì trên giấy dệt, khổ 24,5×18,5 inches. Viện bảo tàng Brooklyn, New York
Tuy nhiên, sự nổi tiếng của cuộc triển lãm gần đây là nhờ các bản vẽ sử dụng loại bút làm từ cây lau sậy mà Vincent thấy mọc nhiều ở Arles. So với đường nét của bút lông và bút chì, nét vẽ của bút lau sậy tinh tế hơn rất nhiều, khiến cho các bản vẽ mà chỉ giới hạn từ một đến hai độ tone mực đen và nâu của Vincent trông giống như các bức thư pháp Nhật. Nhưng sự nhuần nhuyễn của những nét bút trong những bản vẽ này, cũng như những bản vẽ mả ông thực hiện ở Hà Lan và Bỉ đầu năm 1880, lại trông như những bức tranh được làm từ bản khắc theo những tác phẩm của các họa sĩ mà Vincent yêu thích như Millet; hoặc tốt hơn, trông giống sự phối hợp đồng thời giữa tô mảng và vẽ nét. Chỉ cần một lượng mực tối thiểu trên một nét vẽ, một cây bút lau sậy có thể tạo ra một vệt mực tương đương với vệt mực được làm ra từ công cụ khắc bản vẽ. Vì vậy, những bản vẽ sử dụng bút lau sậy của Vincent dường như là bằng chứng cho việc thực hiện bản khắc. Trong chừng mực nào đó, các dị bản tinh tế, có khi lên tới ba bản giống nhau, mà Vincent vẽ theo kiểu những bức hoạ ở Arles có lẽ phải đặt trong tình trạng được in ấn, hoặc chỉ là những xuất bản phẩm không mấy quan trọng, được in riêng để tặng bạn thân. Mặc dù bản thân Vincent không phải là thợ in thì ông cũng là người buôn bán tranh và sưu tầm tranh ảnh in, và đó chính là nguyên nhân khiến cho kiểu diễn đạt trong các bức vẽ rất gần với loại tranh khắc, đến nỗi trông chúng khác hẳn các bức vẽ của các họa sĩ bậc thầy thế kỷ 19. Dĩ nhiên là còn nhiều điều chưa được đề cập đến, nhưng chắc chắn Vincent đã đánh giá cao việc sử dụng bút lau sậy trong các bản vẽ hình, được thực hiện giống hệt các bức ký hoạ vẽ cọ phức tạp của các hoạ sĩ theo trường phái Ấn tượng cổ điển như Monet, hoặc vẽ chấm điểm của những người bạntheo trường phái Hậu Ấn tượng, Seurat và Signac chẳng hạn.
Cửa sổ studio. 9-1889. Sử dụng cọ, sơn dầu, phấn đen trên giấy sọc hồng, khổ 24,38×18,75 inches. Viện bảo tàng Van Gogh
Việc đến Arles tháng 10 – 1888 của Gauguin, người rất coi thường nguyên tắc trường phái Ấn tượng và cương quyết vẽ từ sự tưởng tượng hơn từ thực tế, chấm dứt đột ngột giai đoạn vẽ thử nghiệm của Vincent. Mặc dù nhập viện sau sự ra đi bất ngờ của Gauguin cuối năm 1888, họa sĩ Vincent đã thoát khỏi ảnh hưởng của những khuynh hướng khác, có thể tiếp tục thực hiện những khát vọng chưa thành trong việc kết hợp giữa vẽ hình và hội họa. Cách tạo hình độc đáo đã đưa ông đến một thế giới không bình thường, thậm chí quay cuồng, một thế giới mà làm cho tác phẩm của ông rung lên như có gió lướt qua ngọn cỏ, có lá cây đang xào xạc, có những đám mây đang trôi xa. Một cơn suy nhược nặng đầu năm 1890 cản trở kế hoạch cuối cùng của ông để triển lãm một số các bản vẽ hình và tranh ở Brussels. Sau đó không lâu, ông tự kết liễu cuộc đời, để lại phong cách vẽ vẫn tiếp tục phát triển sau khi ông qua đời. Cám ơn những mẫu bản vẽ phong phú của Vincent. Rõ ràng là sự quyết định nhìn thế giới với một con mắt khác của ông và làm cho nghệ thuật đồ họa cũng có ảnh hưởng như nghệ thuật hội họa được chia sẻ bởi nhiều họa sĩ thế kỷ 20, từ Matisse và Ernst đến Johns và LeWitt.
PHẠM THỊ KIM OANH (Dịch từ Art in America, tháng 3 – 2006
Xưởng Phim Mỹ Dựng Phim Hoạt Hình Từ Tranh Van Gogh
Xưởng phim Mỹ Breakthru Films đang tiến hành dựng một bộ phim hoạt hình từ tranh sơn dầu theo phong cách vẽ tranh của Van Gogh.
Bộ phim hoạt hình “Loving Vincent” sẽ kể về cuộc đời Van Gogh qua các cuộc phỏng vấn giả tưởng với các nhân vật trong tranh của ông. Trong đó, mỗi cảnh phim sẽ dùng một bức tranh sơn dầu, và các chuyển động sẽ được họa sĩ vẽ thêm vào từng khung hình. Bộ phim sẽ được đạo diễn và chịu trách nhiệm sản xuất bởi Hugh Welchman, người giành giải Oscar cách đây 6 năm cho bộ phim Peter and the Wolf. Ông sẽ nhờ tới 42 họa sĩ và sử dụng các máy tính chuyên biệt để làm bộ phim này.
Các họa sĩ sẽ vẽ nên các bức tranh phong cảnh cũng như chân dung để tham gia vào quá trình do xưởng làm phim thực hiện. Theo Welchman: “Chưa từng có ai lắp đặt cơ sở hạ tầng cho một bộ phim hoạt hình vẽ tranh như vậy. Disney làm với phim 2D, Pixar với phim 3D nhưng chưa từng có ai làm với phim vẽ tranh”.
Xưởng có một khu cơ sở hạ tầng được thiết kế đặc biệt dành cho việc vẽ cảnh phim.
Nhờ việc áp dụng phương pháp làm việc của các họa sĩ bậc thầy như Michelangelo, Rubens cho tới Damien Hirst, xưởng phim đã đạt được tốc độ sản xuất đáng kinh ngạc là 40 phút cho mỗi khung hình. Nhưng đó không phải một công việc dễ dàng. Welchman cho biết: “Một số họa sĩ sẽ chỉ làm bán thời gian do mức độ tập trung của bản thân. Một vài họa sĩ giỏi nhất của chúng tôi cho biết là chỉ cần 5 giờ tập trung cao độ để vẽ tranh là đủ cho một ngày”. Welchman rất mong muốn được sử dụng phương pháp này nhiều lần nữa, và cho biết các họa sĩ của xưởng phim sẽ giới thiệu bộ phim tới công chúng vào tháng 6 này tại London. Sau khi bộ phim hoàn thành, 1/4 các bức tranh sẽ được mang trưng bày, phần còn lại sẽ được đem bán.
Lấy cốt truyện từ hơn 800 bức thư được viết bởi vị họa sĩ tài ba, bộ phim Loving Vincent cung cấp cái nhìn mới về cuộc đời nổi tiếng của Van Gogh, thậm chí còn có thể thuyết phục hơn cả một cuốn tiểu sử truyền thống.
Tranh Tự Họa Của Van Gogh
(Vanchuongphuongnam.vn) – Vincent Van Gogh (1853 – 1890), nhà danh họa Hà Lan (sinh tại Groot Zundert, Brabant và mất tại Auvers-sur-Oise). Cuộc đời ngắn ngủi của họa sĩ là những ngày dài lo lắng tinh thần triền miên, đầy bi kịch.
Thật vậy, đã từ lâu, khi mà phong cách thích hợp biểu hiện tâm lý, thì vẻ mặt riêng của Van Gogh không có gì khác. Tại Hà Lan, chàng chỉ để mắt nhìn qua cử chỉ của những đứa trẻ vị thành niên trong tranh của Cuesmes, những nông dân của Nuenen. Trừ Les Mangeurs de pommes de terre (những người ăn khoai tây) hay La vieille paysanne (Bà lão nông dân), những đường nét mô tả nhân vật trong những họa phẩm đó, tác giả còn chưa thể hiện. Đó là những đường nét, vệt màu nâu xám sống động, màu lục tro, màu đỏ son, những màu cô đặc cho đến bây giờ. Nhưng tại Paris, sau nghệ thuật Nhật Bản, họa sĩ đã khám phá ra khuynh hướng ấn tượng, rồi ở Arles, ở Saint Rémy des Baux, và Auvers-sur-Oise, Van Gogh vẽ vài chân dung Paris, sau nghệ thuật Nhật Bản, họa sĩ đã khám phá ra khuynh hướng ấn tượng, rồi ở Arles, ở Saint Rémy des Baux, và Auvers-sur-Oise, Van Gogh vẽ vài chân dung nhiều lần được coi là mẫu mực. Cézanne đã tìm ra được, họa sĩ nói với chúng ta, trong chân dung. “Cơ hội được nhân lên rất nhiều và cũng rất nghiêm túc”. Hãy biết rằng việc kiếm tìm một bức họa đúng nghĩa sẽ gặp phải một trở ngại rất lớn mà họa sĩ quyết định chiến thắng nó.
Khi chúng ta nhìn những bức tự họa theo từng thời kỳ 3 năm, trừ bức tự họa ở La Haye (b.3) là đã bắt nguồn từ sự nghiên cứu kỹ lưỡng về kỹ thuật sử dụng bút sắt hoặc bút chì, tính cách xa lạ của thời đại mà ta nắm bắt được. Qua những tác phẩm ấy, Van Gogh thể hiện là một nghệ sĩ say mê, mong muốn tự xác định, tự khẳng định cho mình. Họa sĩ làm tỏ rõ những dáng vẻ của con người mà không phải chờ đợi nhiều và đã gây xúc động nhiều nhất. Nhưng sự nghiên cứu thể hiện bằng hình ảnh, những ấn tượng khó tìm đã biến thành giai điệu thực sự và tạo ra sức mạnh mầu nhiệm trong sự chọn lựa về ánh sáng và sắp đặt màu sắc. Chúng ta còn tìm thêm được từ đó hai thử nghiệm đã thâm nhập tác phẩm hoàn toàn mang ý nghĩa tượng trưng: một là sự hòa hợp hai màu lam vàng, bầu trời và ánh sáng, thích hợp với vùng Provence tươi đẹp. Cách phối hợp “quái quỉ” giữa màu lục và màu đỏ thể hiện đam mê, tội ác, cuồng dại của con người. Tôi không chắc rằng hiệu quả luôn giải đáp cho khuynh hướng. Chắc chắn rằng hình ảnh sự vật sẽ khêu gợi hơn là tranh chân dung tự họa màu cam và lục trong sưu tập của Berheim vẽ vào năm 1889. Nhưng hai bức chân dung với lỗ tai bị cắt thì có thật là quái quỉ không? Còn bức tranh ở học viện Courtauld (b.13) với gam màu vàng lam là hình ảnh tinh tế của con người, là miếng mồi vô lý của tư tưởng xấu. Bức tranh ở Chicago (b.12), từ sự bổ sung màu lục đỏ đã chiếm vị trí số một, nói lên sự trở về với tĩnh lặng và sáng suốt. Còn bức người hút ống píp thì sắc màu đã dịu rồi. Từ màu sắc sinh động làm chói rực lên một thứ ánh sáng thánh thiện.
Phong cách sáng tác lúc bấy giờ đã đưa Van Gogh đến sự phá thể có hệ thống từ sự từ chối ý thức về khuynh hướng hiện thực. Họa sĩ còn báo cho ta biết, vào tháng 9 năm 1988, qua bức tranh chân dung mà chàng làm” cho bạn Gauguin (b.10), là chàng vẽ bức tranh đó với “ton xám trên nền lam tái malachit” nhưng họa sĩ viết cho em trai Théo thì bảo rằng đã sử dụng thái quá màu nâu bằng phẩm tía và cũng làm tăng lên tỷ lệ của màu đỏ lên màu lục. Chàng mở rộng dải xanh của áo veste, gần như là bỏ hẵn đi bộ tóc, thay đổi đường biên của đầu, làm nhăn đôi mắt nâng cao cung cách để vẽ như không phải là Vincent mà là một “họa sĩ ấn tượng” muốn làm rõ cái hình ảnh” một nhà sư, kẻ tôn thờ đích thực đức Phật vĩnh hằng. Đó không phải là một hình ảnh vui mà chỉ là sự biến thiên trên nền giấy hoa. Ở đây có thể là xu hướng biểu hiện. Vả lại, cũng như khá lâu về sau này ở Matisse, đó chỉ là nét quyến rũ của tranh. Trong bức chân dung vẽ hình ảnh hiền lành của người đội nón rơm năm 1888 (b.8), chúng ta không tưởng được đó là Van Gogh. Khuôn mặt rất bình thường, mũi có vẻ cứng cáp, bộ râu màu đỏ sậm, mềm mại và rất chải chuốt. Hình ảnh làm rực lên vẻ sáng chói trên nền hồng, là một bữa tiệc sắc màu tươi mát.
Sự táo bạo có thể đưa đến những tác phẩm giá trị bất ngờ, nó không đưa đến những thói quen công thức. Thao tác chuẩn bị mang cung cách truyền thống. Mặt trông thẳng ¾ hay bị cắt nửa phần trên, chân dung bám đúng vào khuôn bởi một vai, đôi khi hai vai. Nền tranh vẽ thoải mái. Cả lúc Van Gogh vẽ bằng ton lạt và từ chối thói quen dùng phong sẫm, và luôn luôn họa sĩ làm việc ấy kỹ lưỡng để làm nổi bật khuôn mặt hoặc làm hòa hợp với gam màu quanh nó tùy theo hiệu ứng biểu hiện. Lại nữa, bức tranh còn có thể để lộ cho người ta thấy được tâm hồn của họa sĩ và nỗi đau khổ phải cắt đứt một cách bi thương một sự nghiệp và một cuộc đời khác biệt hơn người.
Giữa bức tranh vẽ năm 1887 và bức chân dung tự họa sau cùng là cả một vực thẳm cách biệt. Kẻ đi dạo ngày chủ nhật mơ màng nghĩ đến những quán rượu ngoại ô Montmartre là một nhân vật khá vờ vĩnh (b.2). Nhưng bất chấp bộ râu hung hung đỏ và đôi mắt xanh lạnh lùng, chàng trông vẫn thanh lịch trong bộ y phục bảnh bao tương xứng với nền lam vui của bức tranh: bộ veste sắc hoa cà, cà vạt màu thiên thanh, nón màu vỏ hột gà – hồng với ru-băn sắc hoa cà. Trái lại, chân dung cuối cùng, (b.15) với lớp màu lủng củng và dù cho là lần đầu tiên kết hợp giữa lam và lục, với chỉ vết chấm màu hung của râu và tóc, cho chúng ta hiểu đó là một con người cháy bỏng ngọn lửa kinh hoàng, ngọn lửa tự thân ngùn ngụt khói mù, từ đó thiêu hủy lý trí, làm mất đi sự dịu dàng với mọi người và làm mai một một thiên tài.
Giữa hai đối cực đó là tất cả sắc thái tâm hồn, của hiệu ứng, và của kỹ thuật. Nó biểu trưng trong lớp y phục. Tại Paris, Van Gogh mặc bộ veste màu vỏ hột gà có cổ hẹp, viền lam. Chàng thay đổi như vậy là để làm vui màu tùy theo khí sắc màu hoa cà, lam, nâu, xám hoặc lốm đốm đỏ. Chiếc áo sơ mi cổ thẳng vuông vắn, chiếc nơ hình bướm, chiếc nón màu vỏ trứng gà vành chụp xuống thể hiện y phục đúng mốt của người đàn ông. Nhưng cái nhìn thật không vui và miệng thì mím chặt. Arles mời mọc nghệ sĩ với thời gian thong dong hơn. Cũng như trên lộ Tarascon, gần đồng lúa mì, Van Gogh đi khỏi nơi đó có động cơ (8/1888 Bảo tàng Kaiser-Friedrich Madgebourg). Ánh mặt trời tát vào đầu, gió Mistral thổi qua những cánh đồng bao la và cảnh biển cả mênh mông làm phấn khởi người nghệ sĩ Hà Lan nầy. Tuy vậy, đất nước Hà Lan đã cống hiến cho nghệ sĩ ánh sáng mùa xuân chan hòa trên những cánh đồng hoa tu-lip rực rỡ sắc màu, trên những mái ngói đỏ au, trên mặt nước lấp lánh của những dòng kênh thẳng tắp, những khung trời bao la trên bình nguyên mênh mông vô tận. Nhưng đất nước Provence, tinh khiết, trong lành, trù mật giống như nghệ thuật Nhật Bản. Nó chứng minh cho chiếc nón rơm rộng vành (tranh.8), ánh mắt sững sờ, gò má hồng, bộ veste sáng màu xanh lá. Nó giải thích, vào năm 1888 trên pa nô tại Zurich (tranh.9) người ta thấy Van Gogh cạo râu nhẵn nhụi trong bộ veste giản dị hơn, màu da trời trên nón màu lục sáng, vẻ mặt căng thẳng trên chiếc cổ to, tóc chải gọn và gợn sóng, cái nhìn bướng bỉnh, đó là những hình ảnh biểu hiện một sức mạnh thách thức mọi trở lực trên đường đời.
Ở những ngày khác, Van Gogh mặc áo choàng nặng nề với cổ lớn và mũ trùm đầu dẹt ở phần trước bằng da lông thú. Bởi vì họa sĩ bị sốt và rất cần hơi ấm. Nhưng để tự họa chân dung mình trên giá vẽ, chàng phải mang bộ veste không cổ thòng. Lần này, Van Gogh tự vẽ trên nền lam xám lấp lánh ánh sáng (b.7). Bố cục, khối nổi biểu hiện tâm lý bằng vô vàn đường nét tinh tế màu đỏ son trên nền lam, vàng trên nền son lấp lánh vệt ánh sáng trắng. Tất cả đã nói lên một cách chính xác. Nhưng chàng họa sĩ lực lưỡng mà trầm lặng trước khung vải, có phải đó cũng là điều tìm gặp trong bức chân dung đầy chất thơ của họa sĩ đã vẽ vào năm 1889. Trong sự phối hợp lạ lùng giữa sắc lam Phổ và malachit chói sáng của lưu huỳnh, những hình thể lượn sóng, kéo dài trong nền lam bằng những đường vạch ngoằn ngoèo (b.14). Bộ veste trông như chiếc áo blouse nhẹ nhìn chung sắc nét mang vẻ đẹp thanh tú ở tranh của Van Dyck. Bức chân tranh vẽ từ Laren gợi cho người quan sát nhạy cảm nghĩ đến phong cảnh ngập nắng được trình bày rất mộng mị. Sắc lam cùng màu lục như vậy có cường độ làm tăng lên cái háo hức của họa sĩ. Tất cả họa phẩm khác đều trong sắc lam nhẹ và lục tai tái, như vậy ở con người này với bộ áo ves-ton xuề xòa không cổ cũng chẳng cà vạt thì cởi mở và thân thiện biết chừng nào! (b.15).
Tuy nhiên trong nhiều họa phẩm, đã thể hiện đường nét trên khuôn mặt nhưng dễ làm người xem xúc động. Một vầng tráng rộng lùi sau, một cái đầu to, mũi mạnh, khum khum với lỗ mũi rộng, khuôn mặt hình tam giác, không đối xứng với những gò má lồi ra, dưới má lại trũng vào. Chàng mang bộ râu cằm và hàng ria hung đỏ được tỉa tót kỹ lưỡng hoặc sơ sài, đó là khuôn mặt có vẻ kém bình thường của những con người mạnh bạo. Đôi mắt nhỏ rất lãnh đạm với màu vẻ nào cũng dễ mất đi dưới những vòm mắt nặng nề, những cặp mắt lo toan và nhiều đau khổ. Những bức họa đẹp nhất là những bức tranh thể hiện được sự âu yếm, ít nghiêm khắc cuối cùng là – vào thời gian hạnh phúc hơn trong kỳ nghỉ ở Paris vào năm 1887 – hai bức chân dung có đội nón vẽ với màu gạch non.
Bức vẽ ở Amsterdam (b.5) khá ấn tượng là sự hòa hợp dịu dàng màu gạch non và màu lam, làm rạng rỡ bằng màu đỏ. Nghệ sĩ đã biểu lộ bằng một thoáng lo âu về sự kính trọng, nhưng tính cách không đối xứng của khuôn mặt, cái bĩu môi ra vẻ tư lự, cái nhìn liến láy hòa hợp với một bầu trời nền lởm chởm xanh như cơn gió phiêu lưu ngông cuồng đi qua. Bức chân dung vẽ ở Laren (b.4) với màu lam đêm và đất son, lốm đốm đỏ sắc thần sa và vàng chanh biểu lộ sự hiện diện sâu sắc ánh sáng nội tâm. Khuôn mặt và nền tranh bao quanh là hiện tượng giao thoa giữa hai điện năng, giữa hai sê-ri âm ba điểm bằng màu nguyên chất, đó chính là ánh sáng cuộc sống tinh thần đau khổ tỏa ra từ khuôn mặt, một nỗi đau thương thầm lặng còn giày vò; từ đó ta đoán ra được sự trìu mến của Van Gogh dành cho những số phận đời thường một cách rất nhân văn. Kỹ thuật biểu hiện này làm dịu nhẹ bức chân dung vẽ ở Paris vào năm 1887 mà trong đó nền tranh như một vầng hào quang đêm bao quanh khuôn mặt đỏ như lửa (b.6) chính là khúc nhạc dạo cho những hiệu quả của tháng 11 năm 1889.
Ở những tranh ảnh khác, nỗi bất hạnh của nghệ sĩ thể hiện qua một vẻ hung hăng. Ở bức chân dung vẽ tại Oslo (b.13), lý trí và tình nhân loại không hiện hữu. Vẻ mặt trông nghiêng từ đó góc trán với đôi hàm nổi bật lên sự thô bạo, thể hiện bộ mặt của một con người lạc lỏng. Mắt diễn đạt bằng góc cạnh nhiều hơn hình ảnh thực trước gương. Cái nhìn dữ dội rực lên vẻ tàn bạo với màu son chứa đầy ngờ vực, miệng thì xấu và râu mép sắc đỏ hung buông rũ, trên đôi má xanh xao hốc hác, bộ râu đỏ hung cạo sơ sài nói lên chân tướng của một lãng tử sống lần hồi trên đường đi hơn là một họa sĩ thiên tài. Khuôn mặt đầy ảo giác đó được vẽ trên một nền màu lam cuộn sóng, cũng như một bản phác thảo với những nhát quét qua loa lộn xộn của bàn chải, điều hiếm thấy trong tác phẩm của một nghệ sĩ đã dám đặt vào đó những nhát cọ quyết định táo bạo.
Đó cũng là bức chân dung vẽ ở Zurich (b.9) và bức chân dung vẽ mặt người nhìn nghiêng, cả hai sử dụng cùng một lối kiến trúc nghệ thuật. Những bức tranh vẽ tại Zurich thể hiện một con người xác thực, sáng suốt và kiên quyết. Trong bức chân dung vẽ tại Oslo, người ta cảm nhận được từ đó một nỗi hãi hùng thông qua cái nhìn có vẻ vờ vĩnh, cho thấy rõ hơn ở đó một sự hiện hữu phù du, cảnh khốn cùng suy sụp. Một sự thú nhận như thế được biểu lộ như các bức họa chân dung của Rembrant*cũng rất đa dạng nói lên những tiến triển từng chặng suốt một đời người, sự tiến bộ của họa sĩ và lắm nỗi thăng trầm do số phận. Những họa phẩm chân dung của Van Gogh chiếm lĩnh không gian nghệ thuật trong 3 năm. Tính đa dạng của nó biểu lộ nỗi ngao ngán của một thiên tài đã miệt mài thử nghiệm một cách vội vàng.
Ngày 17/09/1888, Van Gogh viết cho Théo nói về sự thỏa mãn của nghệ sĩ đã hoàn thành cho Gauguin chân dung của mình vào khoảng khắc đã hứa và bức tranh của bạn là Gauguin gởi đến cho chàng đã gây sầu não vì chàng nhận ra trên tấm tranh của Gauguin “không gợn lên một chút niềm vui”. Nhưng với chàng, nhà nghệ sĩ thiên tài Van Gogh mà cuộc đời nghèo túng, nghiệt ngã vì bệnh tật đã sở hữu hơn 850 tác phẩm** trải qua 10 năm cật lực lao động nghệ thuật trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, có bao giờ ta có dịp thấy thoáng xuất hiện trên khuôn mặt chàng một nụ cười?
Tham khảo
Đ.T
* Rembrandt (1606-1669) họa sĩ bậc thầy Hà Lan về chân dung.
** Van Gogh vẽ bình quân mỗi năm khoảng 100 bức tranh (Lê Thanh Đức – Vanh xăng Van Gog – NXB Văn Hóa, 1984).
Tâm Hồn Bi Thảm Của Van Gogh Qua Những Bức Tranh
– Tranh tự họa của Vincent Van Gogh qua các thời kỳ đánh dấu những bước phát triển mới trong nghệ thuật của ông với nhiều thay đổi về cách vẽ và hé lộ phần nào tâm lý bất ổn của hoạ sĩ. Trong năm năm cuối đời mình ông vẽ hơn 30 bức tự hoạ.
Bức tự hoạ trên chứa đựng tất cả những yếu tố làm nên phong cách Van Gogh: cách phối mầu phản ánh tâm trạng, tốc độ đưa cọ nhanh, đầy năng lượng. Bức tranh được vẽ ngay sau khi ông rời khỏi bệnh viện tâm thần St. Remy tháng 7/1889, lúc này ông vẫn phải tiếp tục chiến đấu với bệnh tình dai dẳng. Đây là một trong những bức tự hoạ đặc tả nội tâm căng thẳng nhất trong nền mỹ thuật.
Bức tranh cho thấy sự khủng hoảng nội tâm của Van Gogh. Ánh nhìn nhọn sắc của ông khiến người xem ái ngại, nó không hướng ra bên ngoài mà xoáy vào bên trong. Năng lượng của bức tranh nằm ở đôi mắt được đặc tả đầy kịch tính. Nhịp đưa cọ bắt đầu từ khuôn mặt, lấy thêm năng lượng rồi đưa xuống phần áo khoác, vòng lên tóc, cuối cùng quét rộng ra nền xanh nhạt.
Màu xanh da trời và xanh lá cây là những tông màu lạnh, đặt bên cạnh màu hung đỏ của tóc và râu tạo ra sự đối chọi hoàn hảo, cho thấy nội tâm biến động dữ dội của tác giả. Người đàn ông này đang phải cố gắng kìm nén bản thân và vật lộn với những nỗi sợ vô hình. Bức tranh được vẽ trước khi Van Gogh chuyển tới Paris.
Bức tự họa này cũng được vẽ trước khi ông tới Paris với phong cách đậm chất truyền thống Hà Lan với các tông màu đất rất đặc trưng. Tác phẩm này mang nhiều ảnh hưởng của người thầy dạy vẽ Anton Mauve của Van Gogh với râu và tóc đặc biệt giống Mauve dù đây là một bức tự họa của Van Gogh.
Tới Paris, Van Gogh bị ảnh hưởng bởi hoạ sĩ Georges Seurat, người đã sáng tạo ra phong cách Pointillism. Seurat vẽ một bức tranh lớn từ những chấm nhỏ xíu, ông sử dụng các màu cơ bản chưa qua pha trộn, những chấm màu này sẽ hoà vào nhau, tạo nên tổng thể một bức tranh với các sắc màu huyền ảo. Tuy vậy, không có được sự kiên nhẫn và cách tính toán khoa học của Seurate nên thử nghiệm của Van Gogh với phong cách Pointillism tương đối vụng về, không thể hiện được tài năng thiên bẩm của ông – lột tả cảm xúc một cách tự nhiên bằng cách phối màu.
Bức tự hoạ này chịu ảnh hưởng của trường phái Ấn tượng thể hiện qua cách sử dụng màu sắc và đưa cọ. Trường phái Ấn tượng luôn thể hiện màu sắc dưới ánh sáng tự nhiên bằng cách sử dụng những tông màu cơ bản mà ta vẫn thấy ở cầu vồng. Hoạ sĩ không dùng những màu pha như nâu, xám, hay đen trong tranh. Thay vào đó, họ tô nhiều lớp màu cơ bản lên nhau để tạo ra màu mong muốn trực tiếp trên vải vẽ. Ví dụ, chiếc áo của Van Gogh trong tranh được vẽ bởi hai lớp màu đỏ và xanh lá cây hoà trộn vào nhau. Một số mảng hoà trộn rất tự nhiên để tạo ra sắc nâu nhưng khi dùng các thiết bị hiển vi, người ta vẫn nhận ra được những nét cọ chồng lên nhau sử dụng các màu cơ bản để tạo ra màu pha. Sự hoà trộn này làm gia tăng sức sống cho bức tranh.
Sức sống trong phong cách vẽ của Van Gohh lại gia tăng sức biểu cảm của tranh. Cách đưa chổi của Van Gogh trong bức họa này giúp người xem cảm nhận được độ cứng của chiếc áo khoác và độ mềm của chiếc mũ.
Trong tác phẩm này, Van Gogh tạo được sự cân bằng giữa các gam màu và tiết chế năng lượng khi đưa cọ vẽ.
Cách phối màu đạt đến đỉnh cao. Màu ở phần mặt đặc trưng cho phong cách hiện thực thường thấy ở những bức chân dung. Cách đưa cọ tạo ra cảm giác bức tranh như một chùm pháo hoa đang nổ với các sắc đỏ, cam, vàng, trắng, tím, da trời và lá cây. Ông tiết chế năng lượng khi đưa cọ để kiểm soát nhịp điệu của các mảng màu, kích thước nét cọ và hướng đưa cọ. Chúng toả ra xung quanh với điểm khởi phát bắt đầu từ đôi mắt, lan dần ra và cuối cùng tạo thành một vầng xanh da trời và cam tỏa ra xung quanh đầu.
Bức tự hoạ với hình ảnh một bên tai bị băng kín này là một trong hai phiên bản rất nổi tiếng của Van Gogh.
Van Gogh từng mơ ước sẽ lập nên một xóm hoạ sĩ ở thành phố nơi ông sống – Arles, Pháp. Ông đã làm việc cùng một người bạn là họa sĩ Paul Gauguin để biến mơ ước đó thành hiện thực. Sau khi Gauguin chuyển tới Arles cùng Van Gogh, hai người dần nhận ra rằng tính cách của họ đối lập nhau và khó mà hoà hợp trong công việc. Họ thường cãi vã và sau mộ lần tranh luận nảy lửa, Van Gogh đã mất bình tĩnh rồi xông vào đánh Gauguin. Điều này dẫn tới sự hối hận và suy sụp sau này của Van Gogh, ông đã tự cắt một bên tai của mình.
Bức tranh này được vẽ trong hai tuần sau khi sự việc xảy ra, nó thể hiện sự bình thản sau một chấn động tâm lý mạnh. Ánh nhìn của ông trong tranh yên tĩnh và bình thản khi ông tự đối diện với chính mình. Đồng thời nó cũng cho thấy những hy vọng mới bắt đầu xuất hiện trong ông với những gam màu tươi sáng và cách vẽ, cách đưa chổi đơn giản hơn so với những bức trước đây. Một manh mối để ta hiểu được vì sao Van Gogh lại đến với phong cách vẽ trái ngược với những gì ông từng thể hiện trước đây chính là bức tranh khắc gỗ trên bức tường đằng sau ông.
Van Gogh phải vật lộn với chứng tâm thần khiến ông luôn ở những đỉnh cao cảm xúc không ngừng biến động. Dù bệnh tật khiến ông rơi vào những thời kỳ u tối, trầm cảm, và dẫn tới tự sát, nhưng nó cũng đem lại cho ông những giây phút thăng hoa của tột cùng cảm xúc, vẽ nên những tác phẩm độc đáo, dùng màu sắc để nói lên tâm trạng và cách lựa chọn phối màu để đạt tới độ tương phản, kịch tính nhất trong tranh. Người ta trân trọng tranh ông không chỉ vì tài năng của người vẽ ra chúng mà còn bởi sự trân trọng dành cho một con người đã phải trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng để vẽ ra những tuyệt tác này.
Bức Starry Night truyền cảm hứng cho bài hát Starry Starry Night
Cuộc đời bi kịch của Van Gogh đã truyền cảm hứng cho bài hát nổi tiếng Starry Starry Night của Don McLean. Trong đó McLean đã kể lại những chương chính trong cuộc đời buồn của người họa sĩ bằng giai điệu nhẹ nhàng, thong thả nhưng buồn da diết.
Bài hát bắt đầu từ khung cửa sổ phòng riêng của Van Gogh trong bệnh viên tâm thần, ngồi trong phòng từ ngày này sang ngày khác, Van Gogh nhìn ra khoảng vườn nhỏ của bệnh viện, ra cánh đồng lúa phía xa và say sưa vẽ tranh.
Ông yêu cây cọ, yêu những bức tranh nhưng để thể hiện được tình yêu đó qua cây cọ, Van Gogh đã quá khổ sở. “Tôi yêu tranh, nhưng tranh không yêu tôi” và ông đành kết thúc cuộc đời bằng một cái chết đau đớn. Viên đạn xuyên qua ngực nhưng mãi hai ngày sau Van Gogh mới ra đi trong đau đớn tột cùng. Bài hát kết thúc bằng những lời da diết về cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ của Van Gogh với chứng bệnh tâm thần tới những giây phút cuối trong cuộc đời.
Theo Dân trí
Đoàn Xuân Bảo @ 09:36 18/11/2012 Số lượt xem: 1114
Bạn đang đọc nội dung bài viết Nét, Nhịp Điệu Trong Tranh Van Gogh : Trường Đại Học Mỹ Thuật Tp.hcm trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!