Đề Xuất 3/2023 # Một Só Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Văn Miêu Tả Lớp 4 # Top 12 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 3/2023 # Một Só Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Văn Miêu Tả Lớp 4 # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Só Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Văn Miêu Tả Lớp 4 mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Môn Tiếng Viềt có vị trí đặc biệt quan trọng. Học tốt môn Tiếng Việt, học sinh sẽ có cơ sở để tiếp thu và học tốt các môn học khác. Nắm vững kiến thức Tiếng Việt và luyện tập thành thạo các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết các em suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong sáng và có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của dân tộc. Trong nhà trường tiểu học, Tiếng Việt là đối tượng mà học sinh cần chiếm lĩnh. Đồng thời Tiếng Việt cũng là một môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập giao tiếp trong các môi trường hoạt động, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. Góp phần hình thành, phát triển và biểu hiện nhân cách trong cuộc sống và trong xã hội. Trong chương trình tiểu học mới, môn Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi phấn môn có nhiệm vụ rèn cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất. Nó rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó chú trọng vào các kĩ năng nói và viết. Để thực hiện được mục tiêu của phân môn tâp làm văn là xây dựng các văn bản (nói và viết), học sinh cần huy động tất cả các kiến thức Tiếng Việt tiếp thu được qua bài tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện,Vì thế, nếu không được hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà, thì đến lớp khi học các em khó phát hiện ra những chi tiết mà kiểu bài yêu cầu. * Qua thực tế giảng dạy tôi thấy: – Bài viết của học sinh đạt chất lượng không cao. – Học sinh thực hiện khâu tìm hiểu bài, chuẩn bị bài trong tiết Tập làm văn chưa tốt, vì các lí do sau đây: + Các em chưa biết cách tìm hiểu bài nhằm phục vụ tốt cho tiết Tập làm văn trên lớp. + Các em học sinh học rất yếu môn tập làm văn, viết văn còn sai nhiều lỗi chính tả, dùng từ viết câu không đúng ngữ pháp, không sử dụng các dấu câu. Chưa biết sử dụng chính xác Tiếng Việt, tôi cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm và bổn phận. Làm thế nào để học sinh học tốt môn Tập làm văn, từ đó hình thành nhân cách, thêm yêu tiếng mẹ đẻ, yêu đất nước con người Việt NamVới sự suy nghĩ trăn trở đó, tôi quyết định đem hết khả năng, nhiệt tình, sự nỗ lực phấn đấu của bản thân giúp đỡ các em, chỉ cho các em phương pháp, kỹ năng học tốt môn Tập làm văn. Từ những nhận thức trên, tôi đã xác định được vai trò quan trọng của một giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt việc tìm hiểu và chuẩn bị bài cho các giờ học Tập làm văn. Để từ đó các em có điều kiện tốt khắc sâu kiến thức về bài học.Trên cơ sở đó các em vận dụng tốt kiến thức làm bài, nhằm nâng cao chất lượng bài viết cho học sinh. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học ,nâng cao chất lượng dạy trong nhà trường nói chung, học sinh lớp bốn học tốt môn tâp làm văn nói riêng, tôi chọn đề tài :Một số biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả lớp bốn. II. Mục đích, phương pháp và giới hạn của đề tài: 1. Mục đích: Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả lớp 4 nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng viết tốt văn miêu tả và cũng là để nâng cao hiệu quả giảng dạy văn miêu tả lớp 4 cho bản thân khi giảng dạy ở khối lớp 4. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng môn tiếng Việt nói riêng và chất lượng học tập của học sinh lớp 4 nói chung, nâng cao tỷ lệ học sinh khá giỏi, hạn chế tỷ lệ học sinh yếu kém. 2.Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc sách và tham khảo tài liệu. – Nghiên cứu thực tế dạy học : Kinh nghiệm dạy học của bản thân qua thực tế dạy ở lớp 4. – Phương pháp phân tích: phân tích để nắm các vấn đề có tính chất lý luận như mục tiêu văn miêu tả lớp 4. – Phương pháp điều tra: Điều tra để nắm đặc điểm tình hình của lớp, thực trạng việc học văn miêu tả của các em học sinh trong lớp để từ đó đưa ra các biện pháp thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn đối với lớp mình trực tiếp giảng dạy. – Phương pháp quan sát: dự giờ, rút kinh nghiệm. 3. Giới hạn của đề tài: Trong đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả lớp 4 Phạm vi và địa điểm nghiên cứu: Lớp 4/3 Trường TH Tân Hiệp- Phú Giáo- Bình Dương Năm học: 2010-2011 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu kiểu bài văn miêu tả trong phân môn tập làm văn lớp bốn, với phạm vi nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hy vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan hơn, chất lượng của các em được nâng cao hơn. PHẦN II:GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY VĂN MIÊU TẢ LỚP 4 A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU Phân môn tập làm văn giúp học sinh: 1.Trang bị kiến thức kiến thức và rèn các kĩ năng làm văn. 2. Góp phần cùng các môn khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lô-gíc, tư duy hình tượng: bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. B NỘI DUNG DẠY VÀ HỌC 1.Trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn a) Cấu trúc Chương trình Tập làm văn Chương trình tập làm văn lớp 4 được thiết kế như sau: Số tiết Loại văn bản Học kì I Học kì II Cả năm Kể chuyện 19 19 Miêu tả Khái niệm miêu tả Miêu tả đồ vật Miêu tả cây cối Miêu tả con vật 1 6 4 11 8 1 10 11 8 Các loại văn bản khác – Viết thư – Trao đổi ý kiến – Giới thiệu hoạt động – Tóm tắt tin tức – Điền vào giấy tờ in sẵn 3 2 1 1 3 3 3 2 2 3 3 Tộng cộng số tiết 32 30 62 b)Các kiến thức tập làm văn – Văn kể chuyện + Thế nào là văn kể chuyện ? + Nhân vật trong truyện. Kể lại lời nói ý nghĩ của nhân vật. + Cốt truyện + Đoạn văn trong bài văn kể chuyện. Mở bài trong bài văn kể chuyện. Kết bài trong bài văm kể chuyện. – Văn miêu tả +Thế nào là văn miêu tả? + Miêu tả đồ vật + Miêu tả cây cối + Miêu tả con vật – Các loại văn bản khác + Viết thư + Trao đổi ý kiến với người thân + Giới thiệu hoạt động của địa phương + Tóm tắt tin tức + Điền vào giấy tờ in sẵn (phiếu khai báo tạm trú, tạm vắng; thư chuyển tiền; giấy đặt mua báo chí) c) Các kĩ năng làm văn – Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp + Nhận diện văn bản. + Phân tích đề bài – Kĩ năng lập trương trình hoạt động giao tiếp + Xác định dàn ý của bài văn đã cho. + Tìm và sắp xếp ý trong bài văn kể chuyện. + Quan sát đối tượng tìm và sắp xếp ý, tìm và sắp xếp ý trong bài văn miêu tả. – Kĩ năng hiện thực hoá hoạt động giao tiếp + Xây dựng đoạn văn + Liên kết các các đoạn văn thành bài văn. – Kĩ năng kiểm tra đánh giá hoạt động giao tiếp + Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thânvới mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt. + Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt c) Các loại bài học – Dạy lí thuyết – Cũng như ở phân môn luyện từ và câu, các bài dạy lí thuyết Tập làm văn (kể chuyện, viết thư) đều có cấu tạo gồm ba phần: Nhận xét, Ghi nhớ, Luyện tập. Các chức năng của mỗi phần cũng giống chức năng các phần tương tự ở phân môn Luyện từ và câu. – Hướng dẫn thực hành Các bài hướng dẫn thực hành nhằm mục đích rèn kĩ năng làm văn, thường gồm 2,3 bài tập nhỏ hoặc một bài văn kèm theo gợi ý luyện tập theo hai hình thức nói và viết. 2. Mở rộng vốn sống rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh Ở lớp 4 các bài làm văn thường gắn với các chủ điểm. Trong quá trình thực hiệncác kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể chuyện, bài văn miêu tả, tóm tắt truyện, quan sát đối tượnggóp phần phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư duy của trẻ cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp so sánh, nhân hoákhi miêu tả nhân vật, miêu tả đồ vật; nhờ huy động vốn sống, huy động trí tuệ để xây dựng cốt truyện. Học các tiết Tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh lại hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong các đề bài. Khi quan sát đồ vật trong văn miêu tả, học sinh được nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và vật. Các bài luyện tập viết thư, trao đổi với người thân, giới thiệu địa phương, tóm tắt tin tức, điền vào giấy tờ in sẵn cũng tạo cơ hội cho học sinh hoà nhập với cộng đồngNhững cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên với con người và việc xung quanh của trẻ làm nảy nở, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của trẻ. CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY VĂN MIÊU TẢ LỚP 4 I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH 1. Thuận lợi: – Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và hội cha mẹ học sinh – Các em được trang bị cho mình dụng cụ học tập sách giáo khoa đến lớp – Giáo viên có đủ loại sách giao khoa, đồ dùng day học, kết hợp với tranh ảnh sưu tầm, đồ dùng tự làm. – Thư viện có nhiều loại sách cho học sinh: Truyện thiếu nhi, báo nhi đồng, truyện khoa học, truyện ngắn, 2. Khó khăn: – Học sinh của trường chủ yếu sống ở vùng nông thôn, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn. Cha mẹ một số em chưa quan tâm đến việc học tập của con em. – Số lượng học sinh yếu môn tập làm văn nhiều, trong khi số học sinh khá giỏi môn tập làm văn lại rất ít. Chất lượng học sinh không đồng bộ, một số em nhận thức chưa cao, tiếp thu bài chậm. Những học sinh yếu rất ngại học môn tập làm văn. – Các em còn sử dụng lẫn lộn văn nói và văn viết. Vốn từ còn hạn chế. – Chưa có thói quen ham thích đọc sách để trau dồi cách diễn đạt ý và cách hành văn lưu loát. II.THỰC TRẠNG VIỆC HỌC VĂN MIÊU TẢ CỦA HỌC SINH LỚP 4/3 Ngay từ bài văn miêu tả đầu tiên, tôi thấy câu văn của các em thường lủng củng, dùng từ trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả. Ý nghèo nàn, trùng lặp và còn mang tính liệt kê Trước thực tế đó, bản thân tôi đã điều tra phân loại học sinh, nắm chắc từng đối tượng học sinh: học sinh năng khiếu, học sinh trung bình, học sinh yếu. Nắm chắc đối tượng học sinh giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, sẽ có biện pháp dạy học giúp học sinh phát triển năng lực học văn, đồng thời giáo viên cũng có biện pháp phù hợp giúp học sinh yếu, biết làm văn miêu tả có … h trình bày từng phần của dàn bài đã chuẩn bị để cả lớp nhận xét sửa chữa. – Điều lưu ý là cách sắp xếp của mỗi học sinh có đạt được hay không đạt được, giáo viên cũng nên tôn trọng đặc điểm đó nếu dàn ý đảm bảo thể hiện được nội dung bài, phù hợp với yêu cầu của đề. – Giáo viên nên chú ý nhận xét sửa chữa chu đáo dàn ý của học sinh từ cách đánh số đề mục đến cách diễn đạt đề mục. * Làm dàn bài ngay tại lớp. Học sinh chuẩn bị ý (tư liệu) ở nhà. Đến lớp, cả lớp cùng giáo viên xây dựng một dàn ý chung. Khi tiến hành công việc này, giáo viên có điều kiện hướng dẫn học sinh các thao tác cụ thể: lựa chọn, hệ thống hoá, diễn đạt ý, Giúp học sinh luyện viết câu theo trình độ của từng đối tượng. Trước hết mỗi học sinh phải viết được câu đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản vì câu là đơn vị của lời nói. Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu không những đúng ngữ pháp mà còn giàu hình ảnh, lột tả được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Còn đối với những học sinh yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được những câu đúng, thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Yêu cầu giới thiệu cây bút chì Với học sinh yếu: Cái bút chì này là của em. – Với học sinh trung bình: Cái bút chì này là của mẹ mua cho em vào lúc sinh nhật em. Em rất thích cái bút chì này. – Với học sinh giỏi: Thời gian trôi đi nhanh quá! Chẳng mấy chốc đã đến sinh nhật lần thứ chín của em. Bạn Kiều Duyên có tặng em một món quà bất ngờ. Đó là một cây bút chì rất đẹp. (Bài của em Lan Trinh lớp 4/3) Giáo viên cần tập cho học sinh có thói quen lập dàn ý trước khi viết bài hoàn chỉnh. 10. Rèn cho học sinh kĩ năng nói trong tập làm văn rất quan trọng. Giáo viên cần rèn cho học sinh “tự do nói” nghĩ được điều gì thì thoải mái diễn đạt ra điều ấy, điều này giúp học sinh mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em mang nặng tâm lí đứng lên lo sợ nói sai sẽ bị cô và các bạn chê cười. Để giải toả gánh nặng tâm lý này, nên để các em tự do đưa ra ý kiến của mình dù cho ý kiến chưa sát với câu hỏi đặt ra. Giáo viên không phủ nhận những suy nghĩ của các em mà cần khéo léo điều chỉnh, hướng vào trọng tâm đúng mục đích yêu cầu, động viên các em tự tin hơn khi phát biểu. Giáo viên thay đổi nhiều hình thức học tập để cho nhiều học sinh được tham gia trình bày ý kiến của mình. Cần lưu ý những em nhút nhát, động viên khen ngợi kịp thời để các em phấn khởi, tự tin khi trả lời. 11. Cần chấm bài thường xuyên Giáo viên cần có thái độ thương yêu tôn trọng học sinh. Dù thế nào đi chăng nữa thì bài tập làm văn là sự cố gắng, là kết quả lao động của các em. Do đó giáo viên cần có thái độ kiên trì, nhẫn nại, khách quan, công bằng. Đồng thời giúp học sinh sửa bài thật cụ thể. Giúp các em nhận biết điểm hay của bài cũng như phát hiện những điểm chưa đạt trong bài văn của mình để rút kinh nghiệm đồng thời rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn. Ví dụ : Bài của bạn hay vì bạn biết dùng từ liên kết câu, biết sử dụng hình ảnh so sánh, nhân hoá, biết lồng cảm xúc của mình vào bài viết, – Giáo viên cần chỉ rõ những từ hay câu hay cho lớp tham khảo, đây là nguồn động viên cho các em thi đua học tập. Ví dụ: Em giữ gìn chiếc cặp này rất cẩn thận để có thể sử dụng được lâu. Vì đó là chiếc cặp ba mẹ rất vất vả làm ra những đồng tiền để mua cho em. Ngoài ra giáo viên cũng cần tế nhị khi nhận xét đối với những bài yếu, ý nghèo nàn, – Qua phần sửa bài giáo viên có thể rèn cho các em thói quen ghi chép những từ, câu, đoạn văn hay vào “sổ tay văn học” của mình là rất thiết thực. Nó còn giúp cho các em hạn chế mắc lỗi chính tả khi làm bài. Nhắc các em khi đọc sách, báo,những câu, đoạn nào hay ghi vào sổ tay văn học. Có nhiều khi ta đặt ra câu hỏi tại sao có những em viết chính tả không hề mắc lỗi nào nhưng khi viết văn lại sai nhiều lỗi như thế? Nguyên nhân chính là do khi viết văn các em không được nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết chính tả mà bản thân của các phải tự dùng vốn từ của các em. CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN Với các biện pháp đã nêu ra ở trên, tôi đã áp dụng trong học kì I và những tuần đầu của học kì II vừa qua và thường xuyên theo dõi chuyển biến của học sinh. Qua từng tháng tôi nhận thấy học sinh của mình có nhiều tiến bộ trong học môn Tập làm văn. Các em viết ít sai lỗi hơn, biết dùng từ ngữ đặt câu một các mạch lạc, gãy gọn. Viết được đoạn văn chặt chẽ thể hiện ý rõ ràng. Cho đến nay, các em đã biết trình bày bài văn hợp lí về bố cục, diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hình ảnh. Bên cạnh đó một số em yếu cũng diễn đạt khá tốt ý của mình. Tuy vẫn còn một số bài mang tính liệt kê nhưng bước đầu các em đã viết được những câu văn sinh động hơn. Thành tích của các em đạt cao hơn, học sinh học tập tích cực hơn. Kết quả thống kê ở cuối học kì I của lớp tôi đã có chuyển biến tốt. Cụ thể như sau: TSHS Xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu 24 GHKI 0 5 12 9 26 Cuối HK1 3 9 9 3 PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 1.Kết luận chung Phân môn tập làm văn là một phân môn rất quan trọng. Nó tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện và cung cấp. Đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được một bài tập làm văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Phải huy động các kiến thức về tiếng Việt trong quá trình vận dụng này. Các kĩ năng và các kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần. Trong quá trình nghiên cứu và và thực hiện, bản thân tôi cũng rút ra được bài học kinh nghiệm cho mình và cho đồng nghiệp như sau: *Đối với học sinh. – Cần học tốt phân môn luyện từ và câu, chính tả, tập đọc, kể chuyện – Tra từ điển để hiểu nghĩa từ. – Khuyến khích các em có thói quen đọc sách (thơ, văn xuôi, ruỵên cổ tích…), báo. – Có sổ tay ghi lại những câu văn hay, ý hay, đoạn hay,… *Đối với giáo viên – Có cách thức hướng dẫn tìm hiểu bài, cho học sinh chuẩn bị trước bài ở nhà. Giáo viên là người hướng dẫn còn học sinh là người tự tìm hiểu khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới một cách chủ động. – Ngay từ đầu năm học phải nắm vững đặc điểm, tình hình chất lượng ở học sinh để kịp thời đưa ra biện pháp nằm nâng cao chất lượng học tập ở học sinh. – Giáo viên nghiên cứu thật sâu mục tiêu, thể loại bài dạy để lựa chọn những giải pháp tốt nhất. – Giáo viên phải kiên trì tận tâm trong giảng dạy. Luôn động viên khuyến, biểu dương sự tiến bộ của các em dù là rất nhỏ. – Rèn cho học sinh thói quen tự học, tự rèn. – Luôn tạo niềm vui trong học tập, làm cho các em luôn yêu thích khi học tập nói chung, khi học tập làm văn nói riêng. – Giáo viên sắp xếp thời gian hợp lý đầu tư nghiên cứu cho bài dạy để tìm ra hệ thống câu hỏi thật khoa học, gợi mở. – Luôn phối hợp chặt chẽ với đồng nghiệp và phụ huynh học sinh trong việc giảng dạy. – Giáo viên phải nghiên cứu, đầu tư bài dạy để có giờ dạy tốt, sử dụng các phương pháp linh hoạt, sáng tạo.Vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy 2. Ý kiến đề xuất a) Đối với nhà trường: Mua sắm và bổ sung các tài liệu chuyên môn phục vụ cho dạy và học. thường xuyên tổ chức các chuyên đề, hội thảo tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học,. b) Đối với tổ chuyên môn Tổ chức sinh hoạt chuyên môn một cách có hiệu quả. Thường xuyên thao giảng dự giờ rút kinh nghệm cho các thành viên trong tổ. c) Đối với giáo viên – Thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học. Không ngừng tự học tự rèn để nâng cao trình độ của mình. Học hỏi đồng nghiệp, cấp trên nhằm hoàn thiện bản thân. Do trình độ còn hạn chế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp giúp đỡ của các thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài này tiếp tục hoàn thiện và vận dụng vào thực tế giảng dạy trong những năm học tới đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tân Hiệp, ngày 14 tháng 2 năm 2011 Người thực hiện Hán Thị Huyền TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 4 Phương pháp dạy học ở tiểu học. Một số bài tài liệu về để dạy tốt môn tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Từ điển tiếng Việt Tìm hiểu vẻ đẹp bài văn ở Tiểu học. MỤC LỤC Trang Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài 1 II. Mục đích, phương pháp, giới hạn của đề tài 2 1. Mục đích 2 2. Phương pháp 2 3. Giới hạn của đề tài 3 4. Phạm vi nghiên cứu 3 Phần II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Chương I: Cơ sở lý luận của việc dạy văn miêu tả lớp 4 4 A.. Mục đích,yêu cầu . 4 B. Nội dung dạy và học 4 1. Trang bị kiến thức và rèn kĩ năng làm văn 4 a)Cấu trúc trương trình Tập làm văn 4 b) Các kiến thức Tập làm văn 5 2. Mở rộng vốn sống rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm 7 xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh Chương II: Cơ sở thực tiễn của đề tài 9 I. Đặc điểm, tình hình 9 1. Thuận lợi 9 2. Khó khăn 9 II.Thực trạng việc học văn miêu tả của học sinh lớp 4 9 Chương III: Các biện pháp thực hiện 11 I. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 11 1. Chuẩn bị của giáo viên 11 2 Chuẩn bị của học sinh 11 II. Biện pháp thực hiện 11 1. Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh 11 2. Rèn kĩ năng sắp xếp diễn đạt ý 11 3. Làm giàu vốn từ cho học sinh 12 4. Hình thức trò chơi vui học tiếng Việt. 12 5 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cái hay cái đẹp của một đoạn văn 14 6. Dạy Tập làm văn qua giờ Tập đọc 15 7.Dạy Tập làm văn qua giờ Chính tả 15 8. Dạy Tập làm văn qua giờ kể chuyện 15 9. Đặc biệt chú trọng dạy tiết lập dàn bài 16 10. Rèn kĩ năng nói trong giờ Tập làm văn rất quan trọng 17 11. Cần chấm bài thường xuyên 17 CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN 19 PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 20 1. Kết luận chung 20 2. Ý kiến đề xuất 21 a) Đối với trường 21 b) Đối với tổ chuyên môn 21 c) Đối với giáo viên 21 NHẬN XÉT CỦA BGH TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN HIỆP NHẬN XÉT CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHÚ GIÁO

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Văn Miêu Tả

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ

Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi có một số cách như sau:

1. Điều tra phân loại học sinh

Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh. Từ đó, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch và có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần giúp học sinh chậm tiến bộ biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.

2. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát

          Quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết và ngược lại. Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng đối tượng cụ thể. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ ra chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,…); quan sát ở nhà (ngôi nhà em đang ở, buổi sum họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, …); quan sát qua báo, đài (một ca sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích).

3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý

Dàn ý được lập trên cơ sở tìm được những ý đúng với đề tài và trọng tâm bài. Muốn việc tìm ý đạt yêu cầu tốt ta phải căn cứ vào thực tế quan sát hoặc hiểu biết đối tượng, căn cứ vào hiểu biết của mình qua thực tiễn sống…

Tìm được nhiều ý là tốt, nhưng cần phải lựa chọn ý tiêu biểu để bài làm hướng đúng trọng tâm, tránh được sự rườm rà. Việc tìm ý, chọn ý gắn với lập dàn ý và cả hai công việc này bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Cùng với việc lập dàn ý, ta có thể bổ sung những ý khác mà trước đó chưa tìm ra hoặc loại bỏ một vài ý chưa cần, chưa sát trọng tâm của bài…

Lập dàn ý là yêu cầu cần thiết nhất phải có. Một dàn ý rõ ràng, cụ thể, hợp lí sẽ góp phần vào kết quả bài làm văn của học sinh. Dàn ý của một bài tập làm văn thường có ba phần: mở bài, thân bài, kết bài.

Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.

4. Làm giàu vốn từ cho học sinh

Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên  yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,…); khuôn mặt (bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ,…); nước da ( trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm,…); dáng người ( nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khoẻ, cao cao,…); nụ cười ( khanh khách, sằng sặc, mủm mỉm, ha hả,…).

Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát người bạn), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua hình thức trò chơi,…

5. Giúp học sinh luyện viết câu

Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn:

+ Với học sinh yếu: Tóc bạn Loan đen huyền.

+ Với học sinh trung bình: Bạn Loan có mái tóc đen huyền, dài ngang vai.

+ Với học sinh khá, giỏi:  Loan có mái tóc đen huyền, óng ả, xoã ngang vai mà không thể lẫn lộn với bất cứ bạn nào trong lớp được.

Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy cho các em sử dụng đúng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải được thường xuyên ôn luyện. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét. Ví dụ:

+ Trong lớp em ai cũng mến bạn Loan.

+ Cột cờ cao chót vót lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.

+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng cây phượng.

Học sinh trao đổi, sửa chữa:

+ Trong lớp em, ai cũng mến bạn Loan.

+ Cột cờ cao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.

+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng.

6. Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn kiến thức văn học

Tích luỹ văn học là điều kiện tối thiểu để học tốt môn Tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học dùng cho các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm.

7. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một đoạn văn được thầy cô tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.

Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:

+ Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?

+ Đoạn văn đã dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ?

+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?…

8. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý

Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em.

Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ:

+ Bạn Thu Nga học chung lớp với em.

+ Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một.

+ Chúng em rất thân nhau.

+ Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu.

+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.

+ Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê.

+ Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi.

+ Bạn rất hay cười.

+ Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn.

+ Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu.

+ Nga viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba.

+ Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương.

+ Bạn không gây gỗ với ai bao giờ.

+ Thầy cô thường lấy bạn để làm gương.

Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn mở bài, thân bài, kết bài phù hợp. Ví dụ:

* Đoạn mở bài:

Em và bạn Thu Nga chơi thân với nhau từ năm lớp Ba. Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn.

* Đoạn thân bài:

Bằng tuổi với em cao hơn em một cái đầu. Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê quen dầm mưa dãi nắng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác. Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn. Nga viết chữ rất đẹp, bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. Thầy thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn chữ. Ở lớp, thầy thường khen bạn hiểu bài rất nhanh. Em chưa thấy bạn gây gỗ với ai bao giờ.

* Đoạn kết bài:

Mỗi khi vắng Thu Nga, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu.

Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ nhân vật. Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ, hoạt động, tính nết của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu thì ta mới nhận ra nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học sinh vùng nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn lộn với bất cứ bạn học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật.

Đó là những kinh nghiệm tôi đã đúc kết lại trong năm qua. Rất mong mọi người góp ý để tôi có them kinh nghiệm sau này.

Một Số Biện Pháp Nhằm Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 1

Như chúng ta đã biết, tiểu học là nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân. Đây chính là hành trang cho thầy và trò trong quá trình dạy học, điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi lớn, đất nước ta bước vào thời kỳ Công nghiệp hóa – hiện đại hoá có những bước phát triển mạnh. Vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đặt ra ngày càng cấp bách. Với tốc độ phát triển vũ bão của khoa học, con người được tiếp cận những nguồn thông tin đáp ứng với nhu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện nay; đổi mới phương pháp và hình thức dạy học là một việc làm đúng đắn.

Giáo dục Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế. Trong thời điểm mà Cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” đang được các cấp các ngành và toàn xã hội quan tâm hưởng ứng. Song song với các cuộc vận động Ngành triển khai cuộc vận động xây dựng “Trường học thân thiện – học sinh tích cực” Làm thế nào để giúp các em học tập một cách thực sự và có hiệu quả đó chính là cốt lõi của vấn đề “Nhà trường thân thiện – học sinh tích cực” Tích cực phải được thể hiện từ suy nghĩ cho đến thực tế qua kết quả học tập của tất cả các môn học. Thực tế cho thấy mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học cùng với môn Tiếng Việt môn Toán có vị trí quan trọng, vì:

– Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống: Chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở Tiểu học và môn Toán ở các cấp học kế tiếp.

Định hướng giải pháp và hình thức dạy học phù hợp, tối ưu nhất với đặc điểm môn học và tình hình học sinh theo tinh thần đổi mới phương pháp Dạy học.

Xác định mức độ, cách thực hiện đổi mới phương pháp Dạy học theo khả năng và sự cố gắng của giáo viên.

Giúp bản thân làm quen với công tác nghiên cứu, sáng tạo, biết vận dụng các tri thức được trang bị và kinh nghiệm đã có vào việc giải quyết một số vấn đề thực tế đặt ra trong quá trình Dạy – Học. Việc nghiên cứu, phân tích đổi mới phương pháp hình thức Dạy học phù hợp thành công sẽ mang lại những lợi ích cụ thể và thiết thực.Có những hình thức Dạy học giúp giáo viên, học sinh thực hiện Dạy học một cách nhẹ nhàng, hiệu quả phát huy được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh. Đồng thời giúp giáo viên biết vận dụng phối hợp các phương pháp và hình thức Dạy học một cách linh hoạt và có hiệu quả.

Trong hệ thống phát triển giáo dục phổ thông, bậc tiểu học được coi như là cái nền mà lớp 1 chính là viên đá đầu tiên để xây dựng nên cái móng. Móng có chắc công trình xây nền mới vững chãi. Bước vào lớp 1 là giai đoạn chuyển từ hoạt động chủ đạo các em “Học mà chơi – chơi mà học” sang hoạt động “Học tập tích cực” Học sinh bắt đầu được hình thành thói quen nề nếp học tập cơ bản. Đến trường mới các em được học đọc, học viết, học đếm, học làm toán và các em còn được học rèn luyện kĩ năng sống hằng ngày. Nơi đây các em được hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Các em sẽ có nhiều việc để làm hơn. Hoạt động học là một thách thức lớn đối với các em. Trường học sẽ giúp các em khôn lớn hơn – trưởng thành hơn.

Trong mỗi giờ dạy học giáo viên chủ động xây dựng sự phối hợp các phương pháp dạy học mang tính hệ thống trong cả một năm học (từ đơn giản đến phức tạp, từ trực quan đến tư duy trừu tượng khái quát.)

+ Giai đoạn học tập cơ bản: Học sinh biết tính nhẩm được: 1 + 1 = 2

+ Giai đoạn thực hành, luyện tập: Bước đầu hình thành ở các em những kiến thức đơn giản chỉ là nhìn hình vẽ nêu được bài toán, trả lời bài toán và ghi phép tính thích hợp. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn để học sinh tự tìm ra kết quả đúng. Dạng toán này thường là dạng toán tập trung khơi dậy sự sáng tạo và phát triển tư duy học toán cho học sinh lớp 1. Các em thường chỉ biết nêu bài toán theo kiểu thuận theo tranh, còn dạng bài toán có phép tính trừ thứ hai học sinh rất lúng túng trong khi nêu bài toán. Người giáo viên biết phối hợp phương pháp chuyển tải các kiến thức đó đến với các em, giúp các em nêu bài toán một cách dễ dàng hơn.

Ví dụ 2: Hình vẽ (Dạng toán bớt)

– Nêu miệng bài toán “Có 5 con ngựa bớt 2 con ngựa. Hỏi còn lại mấy con ngựa?”

– Trả lời bài toán”Có 5 con ngựa bớt 2 con ngựa. Còn lại 3 con ngựa?”

Học sinh Viết được phép tính thích hợp là:

+ Cùng hình vẽ các em nêu bài toán và phép tính khác:

– Nêu miệng bài toán”Có 5 con ngựa, còn lại 3 con ngựa. Hỏi đã bớt mấy con ngựa?”

– Trả lời bài toán “Có 5 con ngựa, còn lại 3 con ngựa. Đã bớt 2 con ngựa”

Viết được phép tính tương ứng:

+ Chuyển sang giai đoạn giải toán có lời văn: Bài toán: “Tổ em có 4 bạn nam và 6 bạn nữ. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?”

– Trước khi trình bày bài giải yêu cầu nêu được câu lời giải của bài toán. Muốn nêu được câu lời giải của bài toán các em phải tìm hiểu kĩ bài toán cho ta biết gì? và bài toán hỏi ta điều gì? Lúc này bản thân từng em một phải tự nêu câu lời giải của mình cho cả lớp nghe. Giáo viên hướng dẫn các em tìm câu lời giải phù hợp với đề bài toán đã cho.

– Yêu cầu học sinh giải miệng được bài toán 4 + 6 = 10 và trình bày được bài giải đủ 4 bước:

Số bạn tổ em có là:

+ Giai đoạn học tập sâu hơn:

Giúp học sinh hiểu được không chỉ có 4 + 6 = 10, 6 + 4 = 10 mà có thể tìm các số khác cộng lại để kết quả bằng 10:

Dạng toán tập trung khơi dậy sự tò mò tìm tòi sáng tạo và phát triển tư duy học toán cho học sinh lớp 1. Một số không ít học sinh tìm được các phép tính khác nhưng tóm lại cùng có kết quả chung của giáo viên đưa ra.

…. + … +…. + …. = 10 2 + 4 + 3 + 1 = 10

…+ …. + … +…. = 9 3 + 1 + 2 + 3 = 9

…. + … + … – …. = 7 1 + 4 + 1 + 1 = 7

….+ …. + … – …. = 4 5 + 2 + 1 – 4 = 4

Dạng toán này cũng không kém phần khơi dậy sự tìm tòi phát triển tư duy trong học toán cho học sinh lớp 1.

9 – 4 = + 0 9 – 4 = 5 + 0

– Phát hiện (sự mất kiến thức cơ bản của học sinh ở một phần, một giai đoạn nào đó) để kịp thời bổ sung và nắm được phần kiến thức cơ bản, không bị thua kém so với các bạn khác trong lớp.

Ví dụ 3: Bài tập thực hành dạng: “Điền số thích hợp vào ô trống”

Nếu học sinh nào đó khi làm bài tập dạng này thường hay sai tức là em đó chưa nắm được cấu tạo các số đã học. Như vậy giáo viên có thể bố trí thời gian thuận lợi (Có thể ngay trong giờ học hoặc dành thời gian ngoài giờ học) để hướng dẫn các em cách làm. Điều quan trọng là giúp các em hiểu được mức tối thiểu ở dạng bài tập này là phải “Nắm vững được cấu tạo số” và nắm chắc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi các số đã học, để các em vượt qua dạng bài tập này một cách dễ dàng.

Chẳng hạn muốn điền đúng số vào ô trống trong phép tính sau:

8 + = 10 8 + 2 = 10

Buộc các em phải nắm được 10 gồm 8 và 2, từ đó học sinh biết xác định được số cần điền vào ô trống là số 2. Vậy 8 + 2 = 10 cũng chính là bảng cộng trong phạm vi 10 mà các em cần nắm vững.

Cách khác có thể lấy 10 – 8 = 2; 2 chính là số cần tìm ghi vào ô trống để có phép tính đúng.

– Bước đầu giúp các em có khả năng tự học, tự tìm tòi tư duy toán học. Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp dạy học môn Toán lớp 1 nói riêng và đổi mới cách đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục trong các nhà trường tiểu học nói chung và trong mỗi tiết dạy học toán nói riêng của cá nhân. Muốn có một giờ học tốt, thì giờ học đó giáo viên phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, nội dung dạy học, đặc trưng môn học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh; các giờ học đổi mới phương pháp dạy học còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học). Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao trí thức với rèn luyện các kĩ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các phương pháp tiên tiến, hiện đại; các phương tiện dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin trong quá trình dạy học …

Ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một nhu cầu cấp thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì nó giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt học sinh nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của học sinh. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi được tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người học kĩ năng tự tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập. Do đó, công nghệ thông tin ngày nay chiếm giữ vị trí quan trọng trong dạy học. Bản thân nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin. Đối với việc soạn bài với những ứng dụng của công nghệ thông tin cũng mang lại những hiệu quả khác biệt. Bản thân phải thường xuyên cập nhật kiến thức về chuyên môn và tin học. Đặc biệt, khi bắt tay vào soạn bài có ứng dụng công nghệ thông tin, thực sự bị cuốn hút và càng làm nhiều thì càng nảy sinh nhiều ý tưởng, từ đó lòng yêu nghề và sự sáng tạo cũng được bồi đắp thêm. Hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới với những ứng dụng của công nghệ thông tin là không thể phủ nhận. Những ứng dụng của công nghệ thông tin đã giúp người thầy thay đổi cách “chế biến” những bài giảng đơn điệu thành những “món ăn” tinh thần ngon và bổ dưỡng những bài học hấp dẫn, lý thú đạt kết quả cao hơn. Học sinh luôn mong muốn được học những tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin. Muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp công nghệ thông tin vào từng môn học

Nếu chúng ta biết khai thác tốt và ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào việc thiết kế bài giảng thì việc tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ trở nên dễ dàng hơn. Điều này rất cần thiết và phù hợp với mục tiêu của nền giáo dục nước ta là “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.

+ Đối với dạng bài cung cấp kiến thức mới: Sử dụng hình ảnh cụ thể để hình thành giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới dễ dàng …

+ Đối với dạng bài luyện tập thực hành: Sử dụng hình thức thi đua theo nhóm hay theo dãy bàn, hình thức làm bảng con nhờ bảng con học sinh được thực hành kĩ năng viết, làm tính; giáo viên có thể đánh giá việc nắm vững kiến thức, kĩ năng viết, kĩ năng tính của học sinh. Sử dụng bảng con làm thay đổi trạng thái học tập, khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh và tạo ra không khí thi đua học tập sôi nổi trong lớp. Sử dụng vở trắng cho học sinh thực hành kĩ năng viết và làm tính đối với học sinh lớp 1 là rất cần thiết trong tiết học toán. Giáo viên cần hạn chế việc dùng phiếu bài tập trong giờ học toán cho học sinh thực hành, mà cần tăng số lần sử dụng vở trắng để học sinh thực hành càng nhiều càng tốt.

+ Đối với việc củng cố bài dạy: Sử dụng hình thức trò chơi hoặc đố vui để cá nhân, tập thể cùng thi đua lẫn nhau.

Ví dụ 1: Khi dạy Bài phép cộng trong phạm vi 8.

Để khắc sâu cấu tạo số 8 và ghi nhớ các phép cộng trong phạm vi 8, sử dụng các “Câu đố vui” như sau:

“Có 8 cây bút chia hai chị em, chị nhường em phần nhiều hơn”

Hỏi: Chị được mấy cây bút ?

Hỏi: Em được mấy cây bút ?

– Từ ví dụ trên, học sinh sẽ suy nghĩ và trả lời nhiều đáp án khác nhau như:

Chị được 2 cây bút, em được 6 cây bút.

Hoặc chị được 3 cây bút và em được 5 cây bút.

Hay chị được 4 cây bút, em cũng được 4 cây bút, …

– Kèm theo câu trả lời của học sinh giáo viên khen ngợi những học sinh có câu trả lời đúng và nhanh nhất.

Ví dụ 2: Khi dạy Toán – Tiết 65. Luyện tập chung.

– Tổ chức “Nhiều hình thức trò chơi” học sinh tham gia chơi trong khi học như trò chơi (Tiếp sức). Đồng thời chia nhóm nhỏ để học sinh tham gia trò chơi một cách linh hoạt: Cứ 4 em trong một dãy dọc của mỗi tổ là một nhóm. Sau đó phát cho mỗi nhóm 1 tấm phiếu bià có ghi 4 phép tính (tương ứng với 4 em chơi), úp tấm bìa dưới mặt bàn trước mặt các em ngồi bàn đầu dãy.

7 = 4 + .3 3 = 1 + ..2.. 5 = 3 +..2..

8 = ..5..+ 3 2 = 1 + ..1.. 9 = 7 +..2..

6 = ..5..+ 1 7 = ..5..+ 2 9 = ..2..+ 7

Cách chơi: Thời gian trong 2 phút, mỗi em lần lượt làm một phép tính trong phiếu bìa.

: Khi hô hiệu lệnh “Bắt đầu”: Lập tức các em đầu nhóm mở tấm phiếu bìa tính nhanh và ghi kết quả phép tính đầu tiên vào.

– Sau đó lần lượt chuyển cho các bạn kế tiếp thực hiện phép tính và ghi kết quả các phép tính còn lại. Cho đến lúc em ở cuối nhóm điền xong thì nhanh chóng mang tấm phiếu bìa lên gắn ở bảng lớp. Giáo viên cùng học sinh các nhóm theo dõi xem nhóm nào làm xong trước tiên.

– Sau đó học sinh dưới lớp nhận xét kết quả tính của mỗi nhóm và tính điểm thi đua cho các nhóm, nhóm nào làm nhanh và đúng nhiều phép tính nhóm đó thắng cuộc.

– Để kết thúc trò chơi, cả lớp thưởng cho nhóm thắng cuộc một tràng pháo tay thật giòn và kèm theo lời khen ngợi của giáo viên.

Để sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả và hợp lí tôi luôn bám sát mục tiêu từng tiết dạy để đảm bảo tính vừa sức, tạo không khí học tập nhẹ nhàng hứng thú cho học sinh mà không cảm thấy nhàm chán.

Tuân thủ những mục tiêu nguyên tắc chung của việc giải Toán lớp 1.

Bản thân luôn học hỏi đồng nghiệp, tự tìm tòi sáng tạo làm ra một số đồ dùng để phục vụ cho việc dạy – học của bản thân, vẽ cắt một số mô hình bằng giấy bìa các con vật. Qua những đồ dùng giáo viện tự tạo không chỉ dành cho dạy – học bài mới mà giáo viên còn thường xuyên sử dụng vào việc củng cố bài giảng nhằm gây hứng thú và khắc sâu kiến thức cơ bản.

Ví dụ: Khi dạy tiết 49: “Phép cộng trong phạm vi 7”

– Tự tạo ra một số mô hình con vật: gà con màu vàng, ô tô màu xanh, con chim. Để cung cấp các phép tính cộng trong phạm vi 7 với các phép tính:

6 + 1 = 7 5 + 2 = 7 4 + 3 = 7

1 + 6 = 7 2 + 5 = 7 3 + 4 = 7

– Song song với việc chuẩn bị các mô hình còn sử dụng thêm tranh vẽ các chấm tròn dùng để củng cố mối quan hệ giữa các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 5.

– Nhận xét 2 phép tính đều có kết quả bằng 7. Vậy 4 + 3 = 3 + 4 ở đây các số 4 và số 3 đã đổi chổ cho nhau vì thế đều có kết quả bằng 7.

– Giáo viên đưa ra kết luận: “Trong phép cộng khi ta đổi chổ các số thì kết quả không thay đổi”.

– Củng cố mối quan hệ trong phép cộng và phép trừ: 4 + 3 = 7 thì 7 – 4 = 3; 7 – 3 = 4.

Luôn chú trọng đến yếu tố tâm lí, nhằm động viên kịp thời và cũng chú trọng đến việc nhắc nhở nhẹ nhàng với một số trường hợp nhằm giáo dục đức tính chăm chỉ, cẩn thận, tự tin và lòng hứng thú yêu thích học Toán.

Đối với những học sinh tiếp thu bài chậm hay có tính nhút nhát, thường xuyên mời các em lên bảng trả bài và làm bài nhằm rèn luyện tính mạnh dạn cho các em, từ việc gọi các em lên bảng thường xuyên lại được cô giáo và các bạn động viên kịp thời, giải quyết được phần nào về việc bế tắc trong tiếp thu bài ở lớp của các em.

Đối với những học sinh khá giỏi thường xuyên được động viên nhưng cũng không tránh khỏi đôi lúc cần phải nhắc nhở nhẹ nhàng để tránh sự chủ quan trong học tập của các em.

– Dạy trẻ học Toán ở nhà là giúp các em củng cố, bổ sung kiến thức để hoàn thiện hơn những gì đã học tập trên lớp. Ở nhà cũng không cần dạy thêm những gì mà nhà trường không dạy, nhưng ở nhà cần đưa ra một cách tiếp cận mới đem đến những gì cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ.

– Phụ huynh thường không có kinh nghiệm dạy trẻ nên khi kèm con học thường mau chóng nổi nóng, dễ làm trẻ mất bình tĩnh và lòng tự tin trong khi học tập.

– Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải có kế hoạch thăm hỏi một số gia đình học sinh thường xuyên để kiểm tra việc hướng dẫn của phụ huynh và việc học tập của các em đến đâu?

– Từ đó giáo viên có thể hướng dẫn cho phụ huynh một số biện pháp kèm con em học tập ở nhà có hiệu quả.

– Giáo viên chủ nhiệm giúp phụ huynh biết: Cần xem bài học của con mình hôm nay là gì? xác định mục đích chính của bài học đó. Từ đó thông qua việc vui chơi, trò chuyện với con trẻ bằng các ngôn ngữ và phương pháp toán học đưa toán học ngày càng gắn bó với các em, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của trẻ để các em yêu thích học Toán hơn.

– Giúp các em khắc sâu một phần nào kiến thức và kĩ năng đã được học ở lớp.

Ví dụ 1: Khi dạy tiết 21: Bài số 10.

– Để giúp học sinh củng cố cách viết đúng chữ số 10, bố mẹ có thể đưa ra câu đố vui như sau: Để mua 10 cái bánh, mà lại viết mua 01 cái bánh thì sẽ nhận được mấy cái bánh? Từ câu đố trên đã giúp các em phần nào nắm chắc hơn về cách viết số 10; vị trí của số 1 và số 0 trong cách viết số 10.

– Để khắc sâu biểu tượng về quan sát và đếm: Đố con, tìm trên cơ thể người cái gì có đến 10? Học sinh sẽ đếm ngay hai bàn tay có 10 ngón.

Ví dụ 2: Khi dạy tiết 23: Luyện tập chung.

– Để củng cố về các hình vuông, hình tròn, hình tam giác các bậc phụ huynh có thể cùng ngồi ghép với các em để tạo ra một số hình khác chính là các đồ vật gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em, các em được khắc sâu việc nhận biết các hình một cách nhẹ nhàng.

– Dạy con theo cách “Học mà chơi – chơi mà học” sẽ thấm sâu vào trẻ một

cách tự nhiên theo kiểu “Mưa dầm thấm lâu” giúp trẻ cảm thấy tự tin và thoải mái trong việc tiếp thu bài học.

– Mỗi tiết học trên lớp, giáo viên kiểm tra chấm bài, sửa lỗi cho học sinh bằng mực đỏ, ghi rõ số lỗi sai sót.

Chẳng hạn: Viết phép tính chưa thẳng cột, hoặc viết số còn nhỏ và xấu chưa đúng theo quy định viết chữ số 2 ô li vở, hay trình bày bài làm chưa khoa học, khoanh tròn vào kết quả chưa đúng, …

– Khi ở nhà cha mẹ có thể dành thời gian kiểm tra kết quả học tập trên lớp của con. Kiểm tra đối chiếu bài làm của con với phần sửa bài của giáo viên ghi mẫu trong vở, để cha mẹ có thể thấy rõ lỗi sai sót của con em mình – từ đó có thể giúp con sửa chữa và rèn luyện thêm khi tự học ở nhà.

– Trong thời gian học ở nhà cha mẹ có thể tự giao bài tập con làm thêm theo các dạng bài ôn tập trên lớp, để rèn luyện thêm dạng bài này các em còn hay sai khi làm bài. Sau đó kiểm tra đánh giá về cách viết chữ số, cách viết phép tính, kết quả tính và cách trình bày xem đã đúng so với những quy định của giáo viên hay chưa. Từ đó có ý kiến trao đổi với giáo viên để phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh tìm ra biện pháp kèm cặp giúp đỡ các em tiến bộ trong học tập.

– Sau khi thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức dạy học linh hoạt trong học Toán chẳng những kết quả học tập được nâng lên từng bước rõ rệt, mà không khí học tập của học sinh trên lớp trở nên sôi động. Kĩ năng tính toán thành thạo hơn, các dạng bài tập thực hành được các em trình bày một cách rõ ràng và cẩn thận, sạch đẹp.

– Mối quan hệ giữa phụ huynh và giáo viên, giữa giáo viên và học sinh được gần gũi thân thiện hơn.

– Từ đó giúp giáo viên củng cố bổ sung kịp thời công tác chủ nhiệm lớp, đồng thời khơi dậy được ý thức trách nhiệm của một số phụ huynh trước đây vốn ít quan tâm chăm sóc đến việc học tập của con em. Nhất là khâu giám sát hướng dẫn kèm tự học ở nhà của các em. Đồng thời cuốn hút được đa số phụ huynh tham gia vào lớp học. Điều quan trọng là kết quả học tập không chỉ riêng môn Toán mà tất cả các môn học khác đều được nâng cao.

– Hiện nay dạy học rất chú trọng đến việc đổi mới phương pháp và hình thức Dạy – Học lấy học sinh làm trung tâm. Để thực hiện sứ mệnh của người giáo viên trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục phổ thông, điều thiết yếu và cốt lõi nhất là đòi hỏi bản thân giáo viên đề cao lương tâm trách nhiệm, sự nhiệt tình. Đồng thời giáo viên phải năng động sáng tạo, tự học hỏi thêm để tìm tòi những giải pháp thiết thực nhất cho việc dạy học của bản thân ngày càng đạt được hiệu quả.

– Trong đó đặc biệt học sinh lớp 1 cần có sự quan tâm giúp đỡ và hướng dẫn thường xuyên của người lớn. Nhằm giúp trẻ lĩnh hội kiến thức, hình thành niềm tin và phát triển nhân cách tốt. Như vậy sự kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thiết thực vào việc đổi mới và phát triển toàn diện nền giáo dục phổ thông.

– Phải biết tạo ra không khí học tập thật thoải mái, tự nhiên, tránh gây căng thẳng. Giáo viên luôn tôn trọng nhân cách của học sinh. Biết trân trọng những phát hiện của các em dù là nhỏ nhất để hình thành ở các em niềm tin ban đầu ở bản thân.

– Bước đầu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã có nhiều khởi sắc tốt đẹp, đó chính là bản thân đã có sự chuyển đổi về nhận thức và chuyển tải lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được đến với các em. Giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian, học sinh dễ tiếp thu bài học, tiết học cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí các em hơn. Giáo viên không còn độc diễn, thay vào đó học sinh được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu phong phú. Nhờ đó tiết học không còn khô cứng, mang tính áp đặt, giáo điều. Đó cũng là niềm mong mỏi và hi vọng của bản thân. Hi vọng tương lai không xa, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học sẽ trở nên phổ biến để góp phần nâng cao chất lượng của nền giáo dục nước nhà.

– Giáo viên luôn tạo ra sự mới mẻ, biết đưa học sinh tới những bất ngờ thú vị. Bằng những ngôn ngữ, hình ảnh, kinh nghiệm và các phương tiện dạy học, giáo viên cần thu hút được sự chú ý của học sinh. Giúp các em có một động cơ học tập đúng đắn, có ước mơ và hoài bão.

– Biết khai thác triệt để vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, kích thích được sự tò mò, lòng ham hiểu biết, ham hoạt động. Biết tổ chức các hoạt động học tập

chohọc sinh một cách nhịp nhàng, sáng tạo và hiệu quả.

– Cần quan tâm tới từng đối tượng học sinh, từ đó phát huy khả năng và sở trường của các em, có sự đối xử công bằng và bình đẳng, khen chê hợp lí, mang tính giáo dục cao.

– Tạo mọi điều kiện cho học sinh đề xuất sáng kiến và cùng cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu quả ngày càng cao.

Quá trình thực hiện đề tài khó có thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Bản thân rất mong Hội đồng khoa học quý thầy giáo, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp giúp đỡ, góp ý cho đề tài được tốt hơn và vận dụng vào việc dạy học đạt hiệu quả cao.

Bấm vào đây để tải về

Tuyệt Chiêu Giúp Học Sinh Lên Lớp 6 Làm Bài Văn Miêu Tả Chỉ Trong 4 Bước

Thầy Nguyễn Phi Hùng, giáo viên môn Ngữ văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI sẽ giúp học sinh tự tin và dễ dàng đạt điểm trọn vẹn khi làm bài văn miêu tả chỉ với 4 bước đơn giản sau đây:

Bước 1. Tìm hiểu đề

Khi đọc một đề văn miêu tả, học sinh cần gạch chân và tìm ra những từ chìa khóa, xác định đối tượng miêu tả trong bài văn là gì, nhằm phân loại xem nó thuộc dạng nào trong ba dạng văn miêu tả đã học. Ngoài ra, học sinh cần xác định một số các yêu cầu kèm theo đối tượng được miêu tả.

Ví dụ, cùng tả người mẹ, nhưng đề bài có thể đưa ra: “Tả hình ảnh người mẹ khi chứng kiến con được lên nhận phần thưởng tổng kết cuối năm.” Chính những yếu tố bổ sung về thời điểm, hoàn cảnh này sẽ giới hạn lại đối tượng được miêu tả. Học sinh cần lưu ý đến những yêu cầu này, cùng với những yêu cầu về dung lượng, độ dài của bài văn để tránh lạc đề và viết dài dòng, lan man không cần thiết.

Để tìm ý cho bài văn miêu tả, đặc biệt là văn tả thực, học sinh bắt buộc phải có kĩ năng quan sát. Trong quá trình quan sát, học sinh cần tìm ra được những đặc điểm nổi bật, đặc trưng nhất của đối tượng. Thầy Hùng chia sẻ: “Nhiều học sinh khi nhận một đề văn thường có thói quen tìm kiếm tài liệu tham khảo để có sẵn phần nêu đặc điểm của đối tượng. Điều đó là một điều rất không nên. Văn miêu tả đòi hỏi và luyện cho chúng ta khả năng, cách thức quan sát thế giới xung quanh. Không có lí gì mà khi mình chưa quan sát đối tượng lại đi tham khảo các bài văn khác”.

Tuy nhiên, khi sa vào quan sát, không ít học sinh mắc phải tình trạng liệt kê hàng loạt các đặc điểm của đối tượng. Do vậy, để bài văn không bị kể lể, nhàm chán và tạo được sự khác biệt, học sinh cần thêm yếu tố so sánh, liên tưởng, tưởng tượng và bộc lộ cảm xúc. Ngoài ra, cần tả sâu, tả kĩ vào đặc điểm làm nên sự khác biệt của đối tượng đó, giúp bài văn trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.

Bước 3. Lập dàn ý

Sau khi có hệ thống các ý, các đặc điểm của đối tượng, học sinh cần sắp xếp lại theo một trình tự nhất định để phù hợp với nội dung, cấu trúc của bài văn. Hai trình tự quen thuộc nhất với học sinh là không gian và thời gian. Ví dụ, tả một cái cây, theo thời gian từ lúc nó còn non đến lúc dần lớn lên và trưởng thành; hoặc tả sân trường trong một giờ ra chơi, tả từ bao quát trước đến chi tiết từng khu vực trong sân trường.

Bên cạnh đó, học sinh cũng có thể miêu tả theo trình tự tâm lí của nhân vật. Ví dụ, khi tả về một người thân của mình, bắt đầu từ tình yêu thương và những ấn tượng nổi bật nhất như giọng nói, tiếng cười, hành động, thói quen… của bản thân về người đó, sau đó mới tả đến những ấn tượng khác ở phía sau. Đôi khi, để bài văn hay hơn, học sinh cần kết hợp một lúc nhiều trình tự khác nhau.

Thầy Hùng lưu ý: “Ba bước đầu tiên là các bước chuẩn bị, được thực hiện trước khi cầm bút viết bài, các bạn có thể thực hiện ở ngoài nháp hoặc suy nghĩ trong đầu. Có những bạn phân tích và tìm hiểu đề rất nhanh, hình dung bước tìm ý và lập dàn bài tổng quát ngay trong đầu và lập tức đặt bút viết. Có những bạn gạch ngay những từ chìa khóa vào đề bài, sau đó tìm ý và lập dàn ý ra nháp, dàn ý tốt rồi mới bắt đầu viết bài. Điều này phụ thuộc vào kinh nghiệm, phương pháp và kĩ năng riêng của từng bạn”

Tuy nhiên, học sinh nên cẩn thận viết sơ lược dàn ý ra nháp để không bị thiếu ý, bỏ sót ý, lặp ý trong quá trình trình bày các bài thi, bài kiểm tra. Dành một vài phút trước khi viết văn để gạch nhanh, hệ thống những ý lớn, đặc điểm tính chất nổi bật của nhân vật để tự tin viết bài, tạo sự logic hợp lí giữa các ý trong bài văn miêu tả.

Để có một bài văn hoàn chỉnh, bước cuối cùng học sinh cần làm là đọc và soát lỗi. Trong quá trình viết bài, khó tránh khỏi các lỗi chính tả, lỗi lặp từ,… bước này sẽ giúp học sinh có một bài tập làm văn hoàn thiện và chỉn chu hơn, tạo được thiện cảm với người chấm.

Viết văn là cả một quá trình đúc rút và luyện tập kĩ năng viết bài, tích lũy vốn ngôn ngữ, vốn sống và ổn định tâm lí trong phòng thi để có được những bài văn hay. Để đạt điểm cao trong bài thi, bài kiểm tra kì II môn Ngữ văn 6, học sinh cần ôn tập và rèn luyện cách viết ngay từ bây giờ.

Năm học 2019-2020 đã kết thúc, để có sự chuẩn bị kỹ càng và bứt phá trong năm học mới, phụ huynh và học sinh cần lập kế hoạch học tập ngay từ bây giờ.

Chương trình Học tốt của HOCMAI là giải pháp cung cấp đầy đủ kiến thức các môn học quan trọng từ lớp 6 đến lớp 9. Khóa học giúp học sinh ÔN CHẮC kiến thức cũ và HỌC SỚM năm mới ngay TẠI NHÀ và kèm theo hệ thống đề kiểm tra, bài tập tự luyện có đáp án, lời giải chi tiết.

Hệ thống đề kiểm tra và bài tập tự luyện có ĐÁP ÁN và HƯỚNG DẪN GIẢI.

Đội ngũ giáo viên giỏi chuyên môn và giàu kinh nghiệm giảng dạy.

Giúp học sinh tăng cơ hội giành điểm 9 – 10 trong các bài thi, bài kiểm tra.

Thông tin chi tiết về khóa học, phụ huynh và học sinh hãy gọi ngay hotline 0936 5858 12 để được tư vấn miễn phí.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Só Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Văn Miêu Tả Lớp 4 trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!