Đề Xuất 4/2023 # Lập Dàn Ý Phân Tích Phong Cách Thơ Tú Xương Thể Hiện Qua Bài Thương Vợ # Top 11 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 4/2023 # Lập Dàn Ý Phân Tích Phong Cách Thơ Tú Xương Thể Hiện Qua Bài Thương Vợ # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Lập Dàn Ý Phân Tích Phong Cách Thơ Tú Xương Thể Hiện Qua Bài Thương Vợ mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý

B. DÀN BÀI CHI TIẾT

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về nhà thơ Tú Xương và bài thơ Thương vợ

Trần Tế Xương (1871 – 1907), thường gọi là Tú Xương, quê ở Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Thơ Tú Xương nổi bật ở hai mảng trào phúng và trữ tình (còn gọi là hiện thực và trữ tình).

Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động viết về bà Tú. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Tú Xương dành cho người vợ tao khang.

Dẫn dắt vấn đề: Thương vợ – một trong những bài thơ hay, thể hiện rõ rệt phong cách thơ Tú Xương.

2. Thân bài

Đề tài: Viết về bà Tú (vợ ông Tú). Bà Tú là Phạm Thị Mẫn thuộc hàng tiểu thơ con nhà khoa bảng. Lấy ông Tú bà trở thành người vợ tảo tần, yêu chồng thương con, biết trọng tài năng và cá tính của ông Tú.

Chủ đề: Lòng thương quý, biết ơn, trân trọng của Tú Xương đối với vợ – bà Tú, hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống, cần cù, đảm đang, giàu tình thương và đức hi sinh.

Phong cách trữ tình

Sự lam lũ, vất vả, tần tảo của bà Tú được thể hiện ngay trên câu chữ của bài thơ với những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống của người bình dân. Điều này được thể hiện rõ qua cách vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ: lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước, năm nắng mười mưa, một duyên hai nợ…

Những hiểm nguy luôn rình rập lấy bà: thể hiện qua hai câu thực “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”: buôn bán ở mom sông cũng thật nhiều nhiêu khê , vất vả.

Đồng nhất trực tiếp thân cò vào thân phận người vợ. Không chỉ gợi sự liên tưởng mà Tú Xương đã thể hiện ở đó sự cảm thương sâu sắc đối với bà Tú.

Các từ láy: lặn lội, eo sèo được đảo lên trước có tác dụng làm nổi bật lên hình ảnh bà Tú trong công việc buôn bán hàng ngày.

“Lặn lội”: gợi sự vất vả, lam lũ, cần mẫn.”Eo sèo” là quang cảnh chợ đông, tiếng người mua kẻ bán chèo kéo ồn ào, phức tạp (Bà Tú vốn xuất thân là tiểu thư khuê các mà bây giờ phải hòa vào môi trường hỗn tạp) ⇒ sự hi sinh vì chồng vì con ⇒ Ông Tú vừa cảm phục và vừa xót xa cho bà Tú.

Nêu lên những đức tính cao đẹp của bà Tú: “Nuôi đủ năm con với một chồng”

Mỗi chữ “nuôi” đã đủ để nói lên nhiều điều về bà Tú. Hai vế câu với số lượng năm con và một chồng – một số lượng khá đông, đặt lên vai bà Tú đã cho thấy sự đảm đang, tần tảo của bà.

Ông Tú cũng hiểu được lòng vợ nên không gộp mình chung với con mà tách riêng ra vừa là để đùa vui mà cũng là muốn tỏ lòng biết ơn người vợ của mình.

Cũng có người hiểu rằng: việc chia làm hai vế “năm con” với “một chồng” lại cân xứng với nhau về gánh nặng mà bà Tú đã phải gồng gánh nuôi nấng. Câu thơ là một sự thật, bởi nuôi ông Tú đâu chỉ có cơm hai bữa mà còn có tiền chè, tiền rượu. ⇒Câu thơ đã nói lên được sự thấu hiểu, biết ơn của ông với vợ mình. Đồng thời, câu thơ cũng nói lên niềm hạnh phúc của một người vợ tần tảo, hi sinh tất cả cho chồng con. Đó là niềm hạnh phúc của bà Tú được Tú Xương nói hộ.

Nỗi lòng của nhà thơ:

Nỗi lòng thương vợ của Tú Xương được thể hiện thành công qua bài thơ. Tựa đề Thương vợ chưa thể hiện được đầy đủ tình thương của nhà thơ đối với vợ cũng như chưa toát lên được nhân cách của nhà thơ. Tú Xương không chỉ thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ biết lên án thói đời mà còn tự trách mình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng của nhà thơ đối với bà Tú.

Trào phúng, khôi hài, tự cười mình:

Vừa đọc thì ta cứ ngỡ hai câu kết là tiếng chửi, là lời than trách của bà Tú. Nhưng thực tế đó là sự nhập thân, hóa thân của Tú Xương vào nỗi khó nhọc của bà Tú để chửi đời và để chửi mình.

Việc tự chửi mình như Tú Xương đã góp phần làm tăng vẻ đẹp của người lao động mà bà Tú là điển hình.

Việc nhận ra sự vô dụng và tự trách của mình đã cho thấy được nhân cách của Tú Xương.

Nguyễn Đình Chú trong cuốn Thơ văn Tú Xương đã viết: “Có người nhận xét rằng: Tú Xương là một “thứ con đặc biệt” của vợ, tự nhận mà không chút ngượng ngùng sĩ diện. Và càng thấy vợ vất vả bao nhiêu với bố con, Tú Xương càng thấy mình đoảng, là vô tích sự bấy nhiêu! Trong cơn hối hận chả có cách gì tạ lại công ơn của vợ, Tú Xương chỉ buột một lời tự chửi. Chửi cái anh chồng vô tích sự là mình. Chửi luôn cả thói đời bạc bẽo đã đẻ ra cái loại chồng đoảng như mình nốt. Một tiếng chửi mà để lại nhân cách, nhân phẩm là vậy”.

Có đặt tình cảm và thái độ ấy vào hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhà thơ – cái xã hội mà người phụ nữ, người vợ bị coi thường, bị chi phối bởi đạo lí tam tòng tứ đức, bởi lề giáo phong kiến nặng nề – mới thấy hết sự ân tình, đằm thắm của nhà thơ đối với vợ, mới thấy được sự hàm ơn của nhà thơ đối với bà Tú – một điều hiếm thấy trong thơ ca cổ. Khả năng biểu đạt của ngôn từ trong bài thơ Thương vợ là ở đấy. Giá trị của bài thơ cũng ở đấy.

3. Kết bài:

Nêu tóm lược phong cách nghệ thuật thơ của Tú Xương qua bài Thương vợ

Nguyễn Tuân từng nhận xét: “…nhưng tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đất thơ là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình”. (Văn nghệ, tháng 5, 1961)

Gợi mở vấn đề

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Nhà Thơ Tú Xương.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý 1. Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương hay Tú Mỡ, là một trong những nhà thơ có cách viết trào phúng, hài hước.

– Giới thiệu về bài thơ “Thương vợ”.

2. Thân bài: a. Hình ảnh bà Tú * Hai câu thực: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”

– Công việc: buôn bán

– “Nuôi đủ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ.

* Hai câu đề: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

– Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận vất vả, cực khổ, của bà Tú cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ

– Ba từ “khi quãng vắng” đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm.

– Câu thơ dùng phép đảo ngữ (đưa từ “lặn lội” lên đầu câu) và dùng từ “thân cò” thay cho từ “con cò” càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Không những thế, từ “thân cò” còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận nữa. Lời thơ, vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.

– Câu thứ tư làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

+ Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ.

+ “Buổi đò đông” hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm “khi quãng vắng”.

+ Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng” phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt trong thời buổi khó khăn.

* Hai câu luận “Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

– Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

+ “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.

+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.

+ Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình.

+ “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

b. Nỗi lòng của tác giả

– Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.”

+ Ý nghĩa của lời chửi là tác giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của bản thân mình. Nhưng đó lại là một lẽ thường tình trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, dám tự nhận khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là một người có nhân cách đẹp.

3. Kết bài:

– Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ.

Bài mẫu Bài tham khảo số 1

Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà” …

Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình.

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.

Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.

Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn.

Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu,… Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!

Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:

… Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; … Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.

Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công.

Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận/ dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.

Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.

Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn mướn không công. Thân này ví biết đường này nhẽ Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Bài thơ nổi bật là hình ảnh bà Tú – hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.

Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương Hay Nhất

Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Tế Xương

Bài giảng: Thương vợ – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi

– Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú

II. Thân bài

1. Hai câu đề

– Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác

+ Địa điểm “mom sông”:phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định

– Lí do:

+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn

+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.

⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang

+ Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

2. Hai câu thực

– Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

– “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

– Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

3. Hai câu luận

– “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu

– “nắng mưa”: chỉ vất vả

– “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều

– “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

4. Hai câu kết

-Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả

– Tự ý thức:

+ “Có chồng hờ hững”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời

– Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.

→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc.

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm

– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xẫ hội hôm nay

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ (Ngắn Gọn Nhất)

Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– “Ở Tế Xương con người yêu nước đã cho Tế Xương ý thức nuôi dưỡng tiếng nói dân tộc hay là ngược lại con người sành Nôm y tiếng mẹ đẻ ấy đã hình thành cho tâm hồn ái quốc đó. Chỉ biết rằng trong Tế Xương có cả ý thức và cả tiếng nói dân tộc”

– Sáng tác của Tế Xương thường kết hợp giữa trào lộng đùa vui với trữ tình thâm trầm thấm thía. Tiêu biểu là tác phẩm Thương vợ.

Thân bài Phân tích bài thơ Thương vợ

1. 6 câu thơ đầu: Chân dung bà Tú hiện lên qua nỗi lòng thương vợ của ông Tú.

* Hai câu đề

– Tú Xương sinh ra trong buổi giao thời là dấu nối đầy ấn tượng giữa nền văn học trung đại ở giai đoạn cuối chiều nhưng lại kết tinh hoa của nghìn năm với nền văn học cận hiện đại đang bắt đầu có dấu hiệu hình thành.

– Gánh nặng gia đình đè lên vai bà Tú để ông Tú rảnh rang thực hiện vai trò thư kí của thời đại. Chính vì lẽ đó ông Tú luôn tôn trọng vợ.

+ Nỗi vất vả của bà Tú hiện lên qua thời gian, không gian của cuộc mưu sinh buôn bán ngược xuôi. “Quanh năm” là hết ngày này qua ngày khác, tháng này đến tháng khác, năm này đến năm khác, kéo dài triền miên kéo bà vào vòng quay vô tận với cuộc vật lộn mưu sinh đầy vất vả.

+ “Nuôi đủ năm con với 1 chồng”: bà hiện lên với đức tính đảm đang tháo vác, chu đáo với chồng con. Nuôi đủ là vừa đủ không thừa không thiếu, chưa kể bản thân mình. Nhà thơ không gộp chung việc nuôi chồng và con mà tách riêng vì xưa nay việc nuôi con là chuyện thường tình nhưng ở đây người vợ còn nuôi cả chồng

→ Ông Tú coi mình là gánh nặng bằng 5 đứa con, một sự tôn trọng, biết ơn vợ rất đáng trân trọng, đáng quý.

⇒ Hai câu đầu gợi lên hình ảnh bà Tú là một người vợ tần tảo, đảm đang chịu thương chịu khó và tấm lòng biết ơn của Tú Xương với vợ.

– Tú Xương đã dũng cảm vứt bỏ nếp nghĩ cũ đề cao người đàn ông trân trọng người phụ nữ, ông đã phơi bày trước thiên hạ những thói sĩ diện hảo để tôn vinh người vợ.

* Hai câu thực

– Tú Xương miêu tả tăng tiến hơn nỗi vất vả cảu bà Tú.

+ “Lặn lội – eo sèo”, “thân cò – mặt nước”, “khi quãng vắng – buổi đò đông” đã gợi cảnh làm ăn vất vả của vợ. Vì chồng vì con mà bà Tú phải bon chen nơi chợ búa, một người con gái nhà giàu như bà Tú cũng phong trần lấm láp như ai không quản ngại nguy hiểm lo cho chồng cho con.

→ Tú Xương đã nói lên nỗi vất vả, nhọc nhằn của vợ bằng tình thương và sự cảm thông sâu sắc, giọng điệu xót thương. Hình ảnh bà Tú hiện lên càng đáng thương, càng nể trọng bao nhiêu thì Tú Xương lại càng thấy mình vô tích sự bấy nhiêu. Ông thấu hiểu, không phải vì ông vô trách nhiệm mà vì ông bế tắc giữa cuộc sống đầy rẫy chuyện đảo điên.

* Hai câu luận:

– Tú Xương lúc này đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả một cách chân tình nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Hai câu luận nói lên tấm lòng vị tha hi sinh với cha con ông Tú của bà Tú.

– “Âu đành phận – dám quản công” nhà thơ đã sử dụng thành công thành ngữ để nói chuyện bà Tú lấy ông Tú là cái duyên. Nhưng tại sao 1 cái duyên lại 2 cái nợ, ông tự nhận mình là cái nợ của đời bà, ông thương cảm cho bà và tự dằn vặt mình. Tuy nhiên người vợ không hề ý thức đó là sự hy sinh à Hình tượng bà Tú trở nên vị tha, nhân hậu hơn qua mỗi dòng thơ.

⇒ 6 câu thơ đầu bằng tình cảm của mình đối với vợ nhà thơ đã vẽ chân dung bà Tú đảm đang, hy sinh vì chồng con, chấp nhận vất vả, gian truân trong cuộc sống để đảm nhận vai trò trụ cột trong gia đình. Bà Tú mang vẻ đẹp điển hình của người vợ Việt Nam.

2. Hai câu kết: Hình ảnh ông Tú qua nỗi lòng thương vợ.

– Hai câu cuối giọng điệu thay đổi một cách đột ngột, người chồng bày tỏ thái độ của mình với chính mình. Câu thơ buộc ra tự nhiên như tiếng chửi nhưng lại ngậm ngùi như lời than vãn có sắc thái vui đùa chứa đựng ý tình sâu sắc cảm động.

– Chính tập tục phong kiến và hào lũy thành kiến bất công của Nho giáo đã không cho ông thương vợ một cách thiết thực nên ông mới viết thế.

→Tú Xương thể hiện sự nhận thức của một con người biết vượt lên cái hạn chế của tầng lớp và thời đại của mình để cảm thông với những kiếp người quanh mình. Vì thế tiếng chửi ấy không chỉ để dành trách mình mà còn để chửi cái xã hội lố lăng. Lời chửi càng khẳng định thêm tình cảm của ông Tú với bà Tú.

⇒ Bài thơ kết thúc thật độc đáo và bất ngờ vừa thấm đẫm cái bi, cái bất hạnh, cái đắng, cái hài hước. Đó không chỉ là bi kịch của Tú Xương mà còn là bi kịch của một thế hệ. Hai câu kết mở rộng từ tình thương vợ sang thái độ xã hội

Kết bài Phân tích bài thơ Thương vợ

– Bài thơ thể hiện tình yêu thương, sự biết ơn, trân trọng người vợ của Tú Xương. Qua đó là một thái độ chê bai, khinh thường cái xã hội đầy nhố nhăng lúc bấy giờ.

– Bài thơ thể hiện được tài năng, thái độ, cá tính của Tú Xương…

Bạn đang đọc nội dung bài viết Lập Dàn Ý Phân Tích Phong Cách Thơ Tú Xương Thể Hiện Qua Bài Thương Vợ trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!