Cập nhật nội dung chi tiết về Hướng Dẫn Soạn Bài Lòng Yêu Nước Sgk Ngữ Văn 6 Tập 2 mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hướng dẫn Soạn Bài 27 sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Lòng yêu nước sgk Ngữ văn 6 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 6 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 6.
Văn bản
1. Tác giả
– I-li-a Ê-ren-bua (1891-1967) là nhà văn ưu tú, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô, sinh tại thành phố Ki-ép, trong một gia đình Do Thái, cha là viên chức.
– Ông là một nhà báo lỗi lạc.
– I.Ê-ren-bua đã được nhận: Giải thưởng quốc gia 1942 với tiểu thuyết Pa-ri sụp đổ(1941); Giải thưởng Quốc gia 1948 với tiểu thuyết Bão táp (1946-1947); Giải thưởng Lênin về những cống hiến cho sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc.
2. Tác phẩm
Bài Lòng yêu nước được trích từ bài báo Thử lửa của I.Ê-ren-bua viết vào cuối tháng 6 năm 1942. Đây là thời kì khó khăn trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược (1941 – 1945).
Đọc – Hiểu văn bản
1. Trả lời câu hỏi 1 trang 108 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Nêu đại ý của bài văn.
Trả lời:
Đại ý của bài văn: thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và của người dân Xô- Viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.
2. Trả lời câu hỏi 2 trang 108 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Đọc đoạn văn từ đầu đến lòng yêu Tổ quốc và hãy cho biết:
a) Câu mở đầu và câu kết đoạn.
b) Tìm hiểu trình tự lập luận trong đoạn văn.
Trả lời:
a) Câu mở đầu:
Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạch.
Câu kết đoạn:
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
b) Lập luận của đoạn văn rất linh hoạt, sáng tạo, kết hợp giữa diễn dịch và tổng – phân – hợp trong từng đoạn nhỏ.
– Nêu nhận định chung: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất
– Nêu tình huống cụ thể: Chiến tranh đã làm cho những người dân Xô viết nhận ra sâu sắc hơn những vẻ đẹp riêng và hết sức quen thuộc của quê hương mình.
– Kết luận: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm quê hương đã trở thành lòng yêu tổ quốc.
3. Trả lời câu hỏi 3 trang 108 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình. Đó là những vẻ đẹp nào? Nhận xét vẻ cách chọn lọc và miêu tả những vẻ đẹp đó.
Trả lời:
Nhớ đến quê hương, người dân Xô Viết ở mỗi vùng đều nhớ đến những vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:
– Người vùng Bắc nhớ: Những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng “gọi đùa người yêu.
– Người xứ U-crai-na nhớ: Bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh …
– Người xứ Gru-di-a nhớ: Khí trời của núi cao, vị mát của nước đóng thành băng, rượu vang cay sẽ rong bọc đựng rượu bằng da dê..
– Người Lê-nin-grát: nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã …
– Người Mát-xcơ-va nhớ: điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa.
Nhận xét cách chọn lọc, miêu tả những vẻ đẹp đó: tác giả đã chọn lọc những chi tiết giản dị miêu tả cái thần của sự vật và đặc biệt là miêu tả được những nét đặc trưng, thơ mộng nhất của từng nơi.
4. Trả lời câu hỏi 4 trang 109 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước. Em hãy tìm trong bài câu văn thâu tóm chân lí ấy, ghi lại và học thuộc.
Trả lời:
Câu văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước:
Lòng yêu nước, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Luyện tập
Trả lời câu hỏi trang 109 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Nếu cần nói đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình (hoặc địa phương em đang ở) thì em sẽ nói những gì?
Trả lời:
Nếu nói vẻ đẹp tiêu biểu về quê hương mình thì em sẽ nói:
– Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp: đầm sen, những cánh đồng thơm mát…
– Nổi tiếng với nhiều chùa chiền.
– Mái đình cổ kính, rêu phong
– Nhiều cây cổ thụ trên trăm tuổi…
– Những cánh đồng thẳng cánh cò bay thơm hương lúa ngào ngạt.
– Những con sông mang nặng phù sa bồi đắp cho quê hương.
– Những con đường là quanh co ẩn hiện sau lũy tre làng.
– Màu khói bếp tỏa ra trên mỗi nóc nhà mỗi buổi chiều về.
– Từng đàn trâu thong dong gặm cỏ…
Các bài văn hay
1. Phát biểu cảm nghĩ về bài Lòng yêu nước của I-li-a Ê-ren-bua
Bài làm:
I-li-a Ê-ren-bua (1891 – 1962)! à nhà văn lớn của Liên Xô, đồng thời là một nhà báo xuất sắc trong đại chiến thế giới lI. Những sáng tác của ông thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Nga. Cuộc đời nhà văn là tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu và lao động không mệt mỏi. Ông đã có nhiều cống hiến lớn lao cho nền văn học Xô viết hiện đại…
Bài văn Lòng yêu nước trích từ bài báo Thủ lửa của I-li-a Ê-ren-bua viết năm 1942, giai đoạn đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức. Nó được coi là bài ca bất diệt về cội nguồn và sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân Nga.
Bài vàn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và những người dân Xô-viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời bài văn đã nêu lên một chân lí: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Ở đoạn văn này, tác giả giải thích về ngọn nguồn của lòng yêu nước. Nhận định của nhà văn được rút ra từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Tiếp đó, tác giả nói đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc khiến cho mỗi công dân Xô-viết nhận ra vẻ đẹp hết sức quen thuộc của quê hương mình. Điều này được minh hoạ bằng một loạt hình ảnh đặc sắc thể hiện nét đẹp riêng của mỗi vùng trên đất nước Xô viết. Từ đó dẫn đến nhận định khái quát: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ngọn nguồn của lòng yêu nước đã được chứng minh, mở rộng và nâng cao thành một chân lí ở cuối đoạn văn.
Để nói về vẻ đẹp riêng biệt của từng vùng trên đất nước Xô viết rộng lớn, tác giả đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu cho vẻ đẹp ở nhiều vùng khác nhau. Từ cực Bắc nước Nga đến vùng núi phía Tây Nam thuộc nước Cộng hoà Gru-di-a, những làng quê êm đềm xứ U-crai-na, từ thủ đô Mát-xcơ-va cổ kính đến thành phố Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng,…Mỗi hình ảnh tuy chỉ là gợi tả qua nỗi nhớ nhưng vẫn làm nổi rõ được vẻ đẹp riêng và tất cả đều thấm đượm tình cảm yêu mến, tự hào của mọi người về quê hương mình.
I-li-a Ê-ren-bua đã diễn tả lòng yêu nước là một khái niệm trừu tượng bằng những hình ảnh cụ thể và dễ hiểu: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phô’ nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Có nghĩa là lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những sự vật, khung cảnh gần gũi thân quen quanh ta trong cuộc sống hằng ngày. Tình yêu ấy tạo nên sợi dây vô hình mà bền chắc, ràng buộc con người với làng mạc, quê hương, xử sở.
Khi phải sống xa quê hương, tình yêu ấy càng trỗi dậy mãnh liệt trong lòng mỗi người. Giữa những khoảnh khắc im tiếng súng trong một cuộc chiến đấu gay go, ác liệt, mỗi chiến sĩ Xô-viết đều nhớ tới hình ảnh đẹp đẽ, thanh tú của quê hương mình: Người vùng Bắc nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu-cô-nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng” gọi. đùa người yêu.Hay: Người xứ U-crai-na nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh…
Người ở thành Lê-nin-grát… nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga… Người Mát-xcơ-va nhở như thấy lại những phố cũ chạy ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, để rồi đổ ra những đại lộ của thành phố mới. Xa nữa là điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa, dấu hiệu vinh quang của đất nước Nga… Như vậy là trong lòng những người lính của bất kì miền quê nào, dù là miền núi hay đồng bằng, dù nông thôn hay thành thị… đều ẩn chứa những hình ảnh, kỉ niệm sâu sắc về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Nhà văn Ê-ren-bua đưa ra một khái niệm thật giản dị, cụ thể về lòng yêu nước: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Giản dị và dễ hiểu bởi nó là một chân lí, một quy luật, chẳng khác nào dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu gia đình, yêu quê hương mở rộng, nâng cao lên sẽ trở thành lòng yêu nước.
Lòng yêu nước được bắt nguồn từ tình yêu với những vật bình thường, gần gũi, từ lòng yêu gia đình, quê hương. Nhưng lòng yêu nước chỉ có thể bộc lộ đầy đủ sức mạnh lớn lao của nó trong những hoàn cảnh thử thách gay go, mà lúc này là cuộc chiến tranh Vệ quốc ác liệt một mất một còn với quân thù. Chính trong hoàn cảnh ấy, cuộc sống và số phận của mỗi người gắn liền làm một với vận mệnh của Tổ quốc và lòng yêu nước của nhà văn đã được thể hiện với tất cả sức mãnh liệt của nó.
Không thể chấp nhận một lòng yêu nước mơ hồ, chung chung. Lòng yêu nước phải đi đôi với những suy nghĩ, hành động thiết thực và được bộc lộ rõ ràng nhất trong lửa đạn chiến tranh. Trước sự tồn vong của Tổ quốc, mỗi công dân Nga đều hiểu lòng yêu nước của mình lớn đến dường nào. Họ yêu người thân, yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô-viết. Ai cũng cảm thấy mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa, bởi nước Nga thiêng liêng đã trỏ thành máu thịt, thành linh hồn của mỗi người.
Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức xâm lược, nhân dân Nga càng yêu đất nước bao nhiêu thì càng căm thù bọn cướp nước bấy nhiêu. Họ đã biến lòng căm thù ấy thành hành động cụ thể. Mỗi làng quê, thành phố của nước Nga là một pháo đài, mỗi người dân Nga là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm.
Lòng yêu nước chân chính là cơ sở để phân biệt rạch ròi sự khác biệt giữa các chiến sĩ Hồng quân – người anh hùng cầm súng bảo vệ Tổ quốc và tên lính Đức – đứa hung phạm, kẻ sát nhân nhà nghề. Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hồng quân đã khiến cho binh lính Đức khiếp sợ và khâm phục.
Gương hi sinh oanh liệt của năm chiến sĩ hải quân trong trận giao chiến ác liệt bảo vệ Xê-bát-xtô-pôn là bằng chứng hùng hồn cho lòng yêu nước: Họ đã ôm lấy nhau, gùi nhau lời chào vĩnh biệt và quấn lựu đạn vào người, lăn ra cản xe tăng địch. Hơn ai hết, họ là những người tha thiết mến yêu cuộc sống nhưng cũng dám xông vào cái chết, hiến dâng sự sống của cá nhân để gìn giữ sự sống cho đất nước và dân tộc. Họ đã chiến thắng cái chết và trở thành bất tử bởi tinh thần hi sinh cao cả của họ đã thổi một nguồn sống mới vào lòng triệu con người; nó đã mỗ rộng và luyện chắc linh hồn nước Nga; nó sống mãi giữa trận chiến đấu ác liệt nhất trong năm nay; nó còn sống cả sau ngày thắng lợi giữa muôn hoa rực rỡ tung nở trên khắp các đồng quê và trong những giọng hát trong trẻo nhất của một bầy thiếu nữ đồng ca.
Tổ quốc Liên bang Xô viết và nhân dân Nga ngàn đời ghi nhớ công ơn của những người anh hùng cứu nước. Vinh quang bất diệt thuộc về họ.
2. Cảm nhận khi đọc Lòng yêu nước của l-li-a Ê-ren-bua
Bài làm:
I-li-a Ê-ren-bua là một nhà văn – nhà báo nổi tiếng của Liên Xô trước đây. Cuộc đời cầm bút của ông đã gắn bó với một giai đoạn thử thách đầy ác liệt và cam go của đất nước Xô Viết: cuộc đụng đầu quyết liệt giữa nhà nước Xô Viết chân chính với bọn phát xít Hít-le trong cuộc chiến tranh vệ quốc vỉ dại (1941- 1945). Lửa thử vàng, chính trong lúc cam go nhất của lịch sử, lòng yêu nước của công dân Xô Viết được thử thách. Là một nhà báo, I-li-a Ê-ren-bua đã ghi lại được những thời khắc lịch sử vô cùng quý báu và thiêng liêng của dân tộc. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã ra đời trong thời kì này mà Thử lửa là một sáng tác đặc sắc.
Thử lửa là một bài báo rất độc đáo. Chính chất văn và chất báo trong con người I-li-a Ê-ren-bua đã kết tinh nên thiên tuỳ bút – chính luận này.
Bài văn Lòng yêu nước (Ngữ văn 6, tập II) là một phần của thiên tuỳ bút chính luận Thử lửa. Chỉ mấy chục dòng nhưng bài văn cũng đủ đem đến cho người đọc những cảm xúc, ấn tượng khó quên. Bài văn đã hội tụ được trong nó chất chính luận sắc sảo với chất trữ tình đằm thắm, vì thế, việc khẳng đinh chân lí. Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yèu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc trở nên có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Bài văn được bố cục thành hai phần với hai ý lớn. Ở phần đầu của bài viết, tác giả đề cập tới ngọn nguồn của lòng yêu nước. Để thể hiện nội dụng này, tác giả sử dụng một trình tự lập luận khá chặt chẽ.
Mở đầu đoạn văn, tác giả nêu lên một nhận định được đúc kết từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, cụ thể là yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lè mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.
Tiếp đó, tác giả mở rộng chứng minh nhận định, đề cập đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể: Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương.
Cuối cùng, tác giả khái quát thành một chân lí. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn- ga, con sông Vôn- ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yếu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.
Tuy nhiên, sức thuyết phục của bài văn chủ yếu không phải bằng lí lẽ, mà bằng tình cảm thiết tha, sâu đậm và sự hiểu biết sâu sắc về Tổ quốc Liên bang Xô viết của nhà văn. Chính tình cảm và sự hiểu biết ấy đã khiến tác giả cảm nhận được những “nét thanh tú”, những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo của mỗi miền đất nước.
Ngòi bút của tinh tế I-li-a Ê-ren -ri-bua đưa người đọc đến những vùng miền khác nhau của đất nước Liên Xô rộng lớn, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp thiên nhiên, thưởng thức những đặc sản, cảm nhận những tình cảm bình dị, ngọt ngào. Đây miền Bắc của Liên Xô với những cánh rừng bên dòng sông, có những thân cây mọc là là mặt nước, những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Đây xứ U-crai-na êm đềm với bóng thuỳ dương tư lự bèn đường, trưa hè vàng ánh.
Đây sứ Gru-di-a với những triền núi cao có khí trời trong lành, những tảng đá sáng rực, dòng suối óng ảnh bạc, có vị mát của nước đóng băng, rượu vang cay, những lời thân ái giản dị Thật thú vị biết bao! Và đây, thành Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng, với những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè, những phố phường mà mỗi căn phòng là một trang lịch sử. Và đây nữa thành Mát-Xcơ-va cổ kính với những phố cũ ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, với điện Krem-li, nhừng tháp cổ có ánh sao đỏ.
Ngòi bút miêu tả cùa I-li-a Ê-ren-bua mang đậm sác thái trữ tình, thể hiện tình cảm yêu mến và tự hào sâu sắc của ông về quê hương đất nước của mình.
Có thể nói, chưa bao giờ khái niệm về lòng yêu nước lại được diễn tả chính xác và gợi cảm đến thế.
Ngay chân lí về lòng yêu nước cũng được thể hiện bằng một hình ảnh so sánh rất ấn tượng. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Sau khi nêu ra ngọn nguồn của lòng yêu nước, I-li-a Ê – ren- bua chuyển sang khắng định: Lòng yêu nước chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ nhất, cao đẹp nhất khi được thử thách trong lửa đạn chiến tranh: Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yêu mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách. Chính trong cuộc chiến tranh vệ quốc một mất một còn này, mỗi người dân Xô Viết hiểu cuộc sống và số phận của họ và gắn liền với vận mệnh Tổ quốc. Và vì thế, họ sẵn sàng rời xa quê hương tươi đẹp, thơ mộng xiết bao trìu mến để lên đường chiến đấu vì Tổ quốc.
Bài văn kết thúc bằng một câu nói đã trở thành phương châm sống của công dân Xô Viết lúc bấy giờ: Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa.
Phương châm ấy đã trở thành lí tưởng sống của mọi dân tộc.
3. Dựa vào bài văn Lòng yêu nước của I-li-a ê-ren-bua, tưởng tượng ra một câu chuyện và kể lại
Bài làm:
Quê tôi là một vùng thôn quê nghèo, đất đai cằn cỗi. Dân làng tôi quanh năm đầu tắt mặt tối mà vẫn nghèo. Đặc biệt cái nóng như rang của gió Lào mùa hạ tưởng như có thể luộc chín người ta. Có lẽ vì thế mà người quê tôi đều tìm cách thoát li khỏi quê đế tìm cuộc sống dễ chịu, an toàn hơn.
Cha tôi không phải thuộc những người ấy, nhưng ông cũng rời xa quê đên ba mươi năm.
Hồi trẻ, ông đi bộ đội. Đơn vị ông đóng quân ở Thái Nguyên. Cha tôi quen một cô cán bộ Hội phụ nữ huyện. Họ thương nhau. Rồi một lễ cưới giản dị được tổ chức.
Khi mẹ tôi đang mang thai tôi thì cha tôi lại lên đường ra mặt trận phía Nam. Mẹ tôi vẫn công tác ở Thái Nguyên. Bà xin cơ quan một mảnh đất và dựng một căn nhà nho nhỏ.
Bằng bẵng suốt 20 năm trời, cha tôi chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Rồi chiến tranh kết thúc, cha tôi trở về.
Cha tôi trở về gặp lại vợ con khi tóc người đã điểm bạc, còn tôi đã là sinh viên của một trường sư phạm. Gặp lại mẹ con tôi, cha tôi mừng lắm. Nhưng không hiểu sao, chỉ được một tháng sau ngày trở về, cha tôi bàn với mẹ tôi chuyển về quê ở Nghệ An. Mẹ tôi không đồng ý. Cha tôi cũng không ép, nhưng ông có vẻ buồn lắm. Ông trở nên ít nói và sông lặng lẽ hơn.
Ba năm sau ngày trở về, vết thương cũ của cha tôi hồi ở chiến trường tái phát. Cha tôi đổ bệnh rồi qua đời. Trước khi giã từ cuộc sống để trở về nơi cát bụi, cha tôi để lại một lời trăng trối tha thiết:
– Khi nào tắm rửa cho cha, con hãy đem hài cốt cha về chôn tại quê nhà. Con hãy hứa với cha đi, có như vậy cha mới yên lòng mà nhắm mắt.
– Con… xin… hứa…! Tôi trả lời trong tiếng nức nở nghẹn ngào.
Trong lúc đau thương tột đĩnh, tôi vẫn nhận thấy ánh mắt cha tôi ánh lên một thứ ánh sáng lạ kì mà tôi chưa từng thấy. Rồi cha tôi trút hơi thở cuối cùng.
Ba năm sau, theo di nguyện của cha, tôi đem hài cốt ông chôn cất tại quê nhà.
Đây là lần đầu tiên tôi về quê mã tại sao cái gì cũng rất thân quen. Từ con đường làng đầy bùn đất, đến những trảng cát ven biển, những rặng phi lao chắn bão, những con sò, con ốc… tất cả những thứ đó dường như tôi đã gặp từ rất lâu rồi. Chị gái họ đưa tôi ra biển tắm. Biển quê hương âu yếm ôm tôi vào lòng, vỗ về tôi…
Có một sợi dây vô hình nào đó gắn bó tôi với làng quê mình mà tôi không nhìn thấy, giờ đây, tôi cảm nhận rất rõ.
Tôi bỗng hiểu vì sao cha tôi muốn về sống những ngày cuối đời ở quê. Vì sao cha tôi muốn tôi đưa hài cốt ông về chôn cất tại quê nhà. Thì ra cái tình quê âm ỉ cháy dai dẳng suốt mấy chục nằm trong lòng người con xa quê. Cái tình quê sâu nặng ấy làm nên tình yêu Tổ quốc để ông có thể dũng cảm từ biệt quê hương, chiến đấu cho Tổ quốc. Và khi đã làm tròn bổn phận công dân, cái tình quê ấm áp ấy lại thôi thúc ông trở về.
– Cha ơi, cha hây yên lòng nằm nghĩ giữa làng quê mình. Cảm ơn cha đã cho con hiểu thế nào là tình nhà, tình quê, nghĩa nước. Tôi thầm thì khe khẽ.
“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com”
Soạn Bài Lòng Yêu Nước; Lao Xao Sách Bài Tập Ngữ Văn 6 Tập 2
1. Đọc đoạn đầu của bài Lòng yêu nước (Từ đầu đến “lòng yêu Tổ quốc”) và cho biết:
a) Trình tự lập luận của đoạn văn, câu mở đầu và câu kết đoạn.
b) Nhận định mà tác giả nêu lên ở câu mở đầu được nhắc lại với sự mở rộng và nâng cao ở câu kết đoạn như thế nào ?
2. Bài văn đã gợi tả nhiều vẻ đẹp riêng biệt ở mỗi vùng trên đất nước Liên Xô (trước đây). Em hãy nhận xét về cách chọn lọc và miêu tả những vẻ đẹp ấy trong bài văn.
3. Nghệ thuật miêu tả các loài chim trong bài Lao xao rất tự nhiên, sinh động và hấp dẫn. Em hãy làm rõ cách miêu tả của tác giả qua những điểm sau :
– Mỗi loài được miêu tả về những phương diện nào và tả kĩ điểm gì ?
– Kết hợp tả và kể/tả ngoại hình và hoạt động như thế nào ?
– Tả xen kẽ các loài chim trong mối quan hệ của chúng.
4. Tìm những yếu tố văn hoá dân gian như thành ngữ, đồng dao, truyện cổ tích,… đã được tác giả sử dụng trong bài. Em còn biết thêm những câu ca dao, đồng dao, thành ngữ nào cũng nói về loài chim ?
5. Qua việc miêu tả các loài chim trong bài Lao xao, em cảm nhận được gì về tình cảm của tác giả với thiên nhiên, với quê hương ?
6. Viết đoạn văn miêu tả một loài chim ở vùng quê em hay nơi em ở.
Gợi ý làm bài
1. a) Trình tự lập luận ở đoạn đầu của bài Lòng yêu nước như sau :
– Nêu nhận định chung : “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất.”.
– Nêu tình huống cụ thể : Chiến tranh đã làm cho những người dân Xô viết nhận ra sâu sắc hơn những vẻ đẹp riêng và hết sức quen thuộc của quê hương mình.
– Kết luận : Lòng yêu nhà, yêu làng xóm quê hương đã trở nên lòng yêu Tổ quốc.
b) Nhận định ở câu mở đầu mới nói đến ngọn nguồn của lòng yêu nước. Nhận định ấy đã được mở rộng, nâng cao và được khái quát thành một chân lí ở câu kết của đoạn văn : “Dòng suối… lòng yêu Tổ quốc”.
2. Tác giả đã lựa chọn và miêu tả vẻ đẹp ở nhiều vùng khác nhau, từ vùng cực Bắc nước Nga đến vùng núi phía Tây Nam thuộc nước Cộng hoà Gru-đi-a, những làng quê êm đềm xứ U-crai-na, từ thủ đô Mát-xcơ-va cổ kính đến thành phố Lê-nin-grát đường bệ,… Ở mỗi nơi, tác giả chọn miêu tả vài hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo của nơi đó. Mỗi hình ảnh tuy chỉ là gợi tả qua nỗi nhớ nhưng vẫn làm nổi rõ được vẻ đẹp riêng với đường nét, màu sắc và tất cả đều thấm đậm tình cảm yêu mến, tự hào của con người.
3. Nghệ thuật miêu tả các loài chim trong bài Lao xao rất sinh động, tự nhiên và hấp dẫn. Để đạt được hiệu quả đó, tác giả đã :
– Chọn miêu tả ở mỗi loài vật một vài nét nổi bật đáng chú ý hoặc về tiếng kêu ; hoặc về màu sắc, hình dáng ; hoặc về đặc điểm tập tính của chúng. (Tìm các dẫn chứng trong bài.)
– Kết hợp tả với kể (chuyện con sáo nhà bác Vui tọ toẹ học nói, chuyện về sự tích con bìm bịp). Miêu tả ngoại hình qua hành động (đoạn viết về các loài diều hâu, chèo bẻo, quạ, cắt).
– Các loài chim được tả theo hai nhóm có quan hệ gần gũi hoặc cùng họ với nhau : một nhóm là các loài chim lành, thường mang niềm vui đến cho con người như bồ các, sáo, tu hú, chim ngói,… ; một nhóm là các loài chim dữ như diều hâu, quạ, cắt. Trong các nhóm ấy, chèo bẻo lại dám đánh lại những loài chim ác. Đoạn tả các loài chim dữ không tả riêng từng con mà tả chúng trong các cuộc giao tranh, làm hiện lên hình ảnh và tính nết, đặc điểm của mỗi loài một cách cụ thể, sinh động.
4. Những yếu tố văn hoá dân gian trong bài :
– Đồng dao : Bồ các là bác chim ri… là chú bồ các,…
– Thành ngữ *: Dây mơ, rễ má ; Kẻ cắp gặp bà già ; Lia lia láu láu như quạ dòm chuồng lợn.
– Truyện cổ tích : Sự tích chim bìm bịp.
– Một số câu ca dao cũng nói về loài chim :
– Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. – Cái cò, cái vạc cái nông, Ba con cùng béo vặt lông con nào ? Vặt lông cái vạc cho tao, Hành răm, mắm, muối cho vào mà thuôn. – Ai đem con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng nó bay…
5. Bài Lao xao là đoạn trích từ cuốn hồi kí tự truyện Tuổi thơ im lặng của Duy Khán. Các loài chim được miêu tả trong khung cảnh làng quê gắn với những kỉ niệm tuổi thơ của nhà văn. Qua đó, có thể cảm nhận được tình yêu rất hồn nhiên, trong sáng với thiên nhiên làng quê của tác giả, đó cũng là một phần của tình cảm quê hương bền chặt ở mỗi người.
6. Khi miêu tả cần theo một trình tự thích hợp và linh hoạt. Có thể bắt đầu bằng tiếng hót hay màu sắc, hình dáng đặc biệt gây ấn tượng của loài chim em tả rồi miêu tả tiếp về các phương diện khác của loài chim ấy. Cần lựa chọn, tả kĩ một vài điểm nổi bật đáng chú ý nhất, không tả dài, tả mọi thứ.
Hướng Dẫn Soạn Bài Lượm Sgk Ngữ Văn 6 Tập 2
Hướng dẫn Soạn Bài 24 sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Lượm sgk Ngữ văn 6 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 6 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 6.
Văn bản
1. Tác giả
– Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.
– Quê: Tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Sinh ra trong một nha nho nghèo, từ sáu bảy tuổi đã học làm thơ.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Tố Hữu trở thành nhà lãnh đạo tư tưởng, văn nghệ của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng trở thành nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam.
– Năm 1996: Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
– Một số tác phẩm nổi bật: Từ ấy (thơ, 1946); Việt Bắc (thơ, 1954); Gió lộng (thơ, 1961); Ra trận (thơ, 1972); Máu và hoa (thơ, 1977); Một tiếng đờn (thơ, 1992).
2. Tác phẩm
– Lượm – sáng tác năm 1949, nằm trong tập thơ Việt bắc.
– Hoàn cảnh sáng tác:
Trong hồi kí Nhớ lại một thời, ở cả hai lần in- Nxb Hội nhà văn – năm 2000 trang 260, NxbVHTT năm 2002 trang 200, Tố Hữu lại cho biết: ông viết bài thơ này vào năm 1952 khi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 3 ngày 21 tháng 1 năm 1952 ” Chính trong Hội nghị Trung ương lần thứ 3 này một đồng chí ở Thừa Thiên ra kể cho tôi nghe về những tấm gương chiến đấu dũng cảm ở quê nhà và cho tôi biết tin về cháu Lượm.
– Nội dung của bài thơ:
Bài thơ kể và tả về Lượm bằng lời của người chú. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ của hai chú cháu ở thành phố Huế trong “ngày Huế đổ máu”, sự hy sinh anh dũng của Lượm khi làm nhiệm vụ và hình ảnh sống mãi của Lượm.
Đọc – Hiểu văn bản
1. Trả lời câu hỏi 1 trang 76 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Bài thơ Lượm của Tố Hữu kể và tả về Lượm qua những sự việc nào, bằng lời của ai? Dựa theo trình tự kể ấy em hãy tìm bố cục của bài thơ.
Trả lời:
Bài thơ kể và tả về Lượm qua hồi tưởng, tưởng tượng PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả (người chú). Trong không khí tang thương và chết chóc của những ngày đổ máu ở Huế, người chú tình cờ gặp cháu – chú bé Lượm nhỏ tuổi, dễ thương, lạc quan trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Lượm đã vượt bao khó khăn, nguy hiểm để làm nhiệm vụ và đã hi sinh trên cánh đồng lúa quê hương.
Bố cục của bài thơ: ba đoạn:
– Đoạn 1: Từ đầu đến “Cháu đi xa dần” ⟶ Hình ảnh Lượm trong cuộc gặp gỡ tình cờ của hai chú cháu.
– Đoạn 2: Tiếp đến “Hồn bay giữa đồng” ⟶ Câu chuyện vể chuyến liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm.
– Đoạn 3: Còn lại ⟶ Hình ảnh Lượm vẫn sống mãi.
2. Trả lời câu hỏi 2 trang 76 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Hình ảnh Lượm trong trong đoạn thơ từ khổ thứ hai đến khổ thứ năm dã được miêu tả như thế nào qua cái nhìn của người kể (trang phục, hình dáng, cử chỉ, lời nói)? Sự miêu tả đã làm nổi bật ở hình ảnh Lượm những nét gì đáng yêu, đáng mến?
Các yếu tố nghệ thuật như từ láy, vần, nhịp, so sánh trong đoạn thơ đã có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện hình ảnh Lượm?
Trả lời:
Hình ảnh Lượm được thể hiện từ khổ hai đến khổ năm được miêu tả sinh động và rõ nét qua các chi tiết nghệ thuật:
– Trang phục: Cái xắc xinh xinh, Ca lô đội lệch.
Trang phục của Lượm giống như trang phục của các chiến sĩ vệ quốc thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhưng Lượm còn rất bé nên cái xắc bên mình chỉ xinh xinh. Còn chiếc mũ ca lô thì đội lệch thể hiện một dáng vẻ hiên ngang và hiếu động của tuổi trẻ.
– Hình dáng: loắt choắt nhỏ bé nhưng nhanh nhẹn và tinh nghịch. (Cái chân thoăn thoắt, Cái đầu nghênh nghênh).
– Cử chỉ: rất nhanh nhẹn (Như con chim chích), hồn nhiên, yêu đời (huýt sáo, cười híp mí).
– Lời nói: tự nhiên, chân thật (Cháu đi liên lạc, Vui lắm chú à, ở đồn Mang cá thích hơn ở nhà!).
Các yếu tố nghệ thuật như từ láy (loắt choắt, thoăn thoắt, nghênh nghênh… vần gieo (choắt – thoắt, nghênh – lệch, vang – vàng…), nhịp thơ nhanh cùng hình ảnh so sánh (Như con chim chích…) góp phần thể hiện hình ảnh Lượm – một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.
3. Trả lời câu hỏi 3 trang 76 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Nhà thơ đã hình dung miêu tả chuyến đi liên lạc cuối cùng và sự hi sinh Lượm như thế nào? Hình ảnh Lượm gợi cho em cảm xúc gì?
Trong đoạn thơ này có những câu thơ và khổ thơ được cấu tạo đặc biệt. Em tìm những câu thơ và khổ thơ ấy, nêu tác dụng của nó trong việc biểu hiện cảm của tác giả.
Trả lời: Nhà thơ đã hình dung miêu tả chuyến đi liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm:
– Nhà thơ hình dung chuyến đi công tác cuối cùng của Lượm rất nguy hiểm: đạn bay vèo vèo, nhiệm vụ cấp bách.
– Nhiệm vụ của Lượm quan trọng, khẩn cấp: thư đề thượng khẩn.
– Tâm thế: Lượm bình tĩnh, gan dạ (sợ chi hiểm nghèo).
– Hình ảnh Lượm anh dũng hi sinh, ngã xuống như một phần của đất mẹ: Lượm ngã xuống trên đồng tay nắm chặt bông mà hồn bay giữ đồng ngạt ngào mùi thơm sữa lúa.
⟶ Hình ảnh Lượm ngã xuống khiến ta khâm phục, kính trọng, xúc động.
Những câu thơ khổ thơ được cấu tạo đặc biệt và tác dụng:
→Diễn tả sự đau xót, sửng sốt đến lặng người.
→ Lời cảm thán, bộc lộ niềm hy vọng đã vụt tắt
– Lượm ơi, còn không?
→ Sự thảng thốt trong lòng người chú khi hiểu rằng Lượm đã hi sinh, nhưng trong lòng vẫn luôn giữ niềm tin.
– Sự lặp lại hai khổ thơ 2 và 3 ở cuối bài: → Lượm không chết, chú vẫn mãi là chú bé liên lạc hồn nhiên đang thực hiện nhiệm vụ trong tim tác giả và trong cả lòng người đọc.
Khổ thơ đặc biệt: “Ra thế/ Lượm ơi!…” diễn tả niềm thương xót, ngậm ngùi trước sự hi sinh đột ngột của Lượm.
4. Trả lời câu hỏi 4 trang 76 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Trong bài thơ, người kể chuyện đã gọi Lượm bằng nhiều từ xưng hô khác nhau. Em hãy tìm những từ ấy và phân tích tác dụng của sự thay đổi cách gọi này đối với việc biểu hiện thái độ, quan hệ tình cảm PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả với Lượm.
Trả lời:
Trong bài thơ, người kể đã gọi Lượm bằng nhiều đại từ xưng hô khác nhau:
– Chú bé: cách gọi của một người lớn tuổi với một em trai nhỏ, thể hiện sự thân mật nhưng chưa phải là gần gũi, thân thiết.
– Cháu: cách gọi biểu lộ tình cảm gần gũi, thân thiết như quan hệ ruột thịt của người lớn với một em nhỏ.
– Chú đồng chí nhỏ: cách gọi vừa thân thiết, trìu mến vừa trang trọng đối với một chiến sĩ nhỏ tuổi.
– Lượm ơi: dùng khi tình cảm, cảm xúc của người kể lên đến cao độ, thể hiện ra trong cách gọi tên kèm theo những từ cảm thán: Thôi rồi, Lượm ơi và Lượm ơi, còn không?
→ Thể hiện tình cảm thắm thiết, gắn bó của tác giả với Lượm.
5. Trả lời câu hỏi 5* trang 76 sgk Ngữ văn 6 tập 2
“Lượm ơi, còn không?”, câu thơ đặt cuối bài như một câu hỏi đầy đau xót sau sự hi sinh của Lượm. Vì sao sau câu thơ ấy tác giả lặp lại hai khổ thơ ở đoạn đầu với hình ảnh Lượm hồn nhiên, vui tươi?
Trả lời:
– Câu thơ: “Lượm ơi, còn không?” được đặt ở gần cuối bài thơ để bộc lộ cảm xúc và khẳng định.
+ Bộc lộ cảm xúc: Tiếc thương, đau xót trước sự hi sinh của Lượm.
+ Câu hỏi còn bộc lộ sự ngỡ ngàng như chưa kịp tin vào sự thật Lượm đã hi sinh.
– Sau câu thơ đặc biệt “Lượm ơi, còn không?” hình ảnh Lượm ở đầu khổ thơ được lặp lại nhằm khẳng định hình ảnh của em còn mãi về quê hương, đất nước và trong lòng mọi người.
Luyện tập
1. Câu 1 trang 77 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Học thuộc lòng đoạn thơ từ Một hôm nào đó đến hết bài thơ.
2. Trả lời câu hỏi 2 trang 77 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Viết một đoạn văn khoảng mười dòng miêu tả chuyến đi liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm.
Trả lời:
Các em có thể tham khảo một trong các đoạn văn sau:
Vẫn như mọi lần, Lượm bỏ thư vào bao, khoác lên vai và bước nhanh trên con đường thường ngày vẫn đi. Tuy vậy, hôm nay con đường này nguy hiểm hơn vì phải băng qua mặt trận đầy bom rơi , đạn nổ. Bỗng một tiếng nổ vang trời, ánh chớp lóe đỏ, Lượm đã ngã xuống và nằm trên lúa. Tay Lượm còn nắm chặt lấy bông lúa, tưởng như chú bé đang chìm vào giấc ngủ thôi. Lượm đã hóa thân vào hồn thiêng sông núi của dân tộc, mãi trường tồn bất tử.
Trận đánh diễn ra ác liệt. Lượm được giao nhiệm vụ đưa thư thượng khẩn. Chú bé cẩn thận bỏ thư vào xắc, vắt chéo ngực rồi chạy như bay trong làn lửa đạn đang vèo vèo trên đầu. Phía bên kia, kẻ thù đã chĩa nòng súng theo chiếc mũ ca lô đứng nhấp nhô giữa dồng. Bỗng một tiếng nổ vang trời, Lượm đã ngã xuống. Chú bé hi sinh trên cánh đồng quê hương, tay còn nắm chặt bông lúa. Hương thơm của lúa non trở thành cái nôi êm ru Lượm vào giấc ngủ vĩnh hằng. Lượm mất đi nhưng tinh thần dũng cảm, hiên ngang của em còn sống mãi với toàn thể đất nước, dân tộc.
Các bài văn hay
1. Phân tích bài thơ Lượm
Bài làm:
Nhà thơ Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông thường tập trung miêu tả quần chúng lao khổ thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi. Và trong tập thể quần chúng ấy có không ít bài thơ là hình ảnh về các em bé hồn nhiên, trong sáng mà anh dũng kiên cường, Lượm là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ là một câu chuyện ngắn về chú bé mang tên Lượm. Lượm làm công việc đưa thư, em là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng vô cùng dũng cảm, kiên cường. Trong một lần chuyển thư Lượm đã anh dũng hi sinh. Lượm là một hình ảnh đẹp để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
Tác phẩm mở ra bằng cuộc gặp gỡ thật tình cờ giữa người chiến sĩ và chú bé liên lạc: “Tình cờ chú cháu/ Gặp nhau Hàng Bè” . Hình ảnh Lượm qua mắt người chiến sĩ hiện lên thật hồn nhiên, yêu đời từ ngoại hình cho đến cử chỉ dáng điệu.
Để miêu tả ngoại hình của chú tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ láy giàu giá trị tạo hình: loắt choắt, chân thoăn thoắt, đầu nghênh nghênh, cùng đôi má đỏ bồ quân ửng hồng, cái mắt híp lại sau nụ cười rạng rỡ, tươi vui.
Trang phục của chú bé cũng hết sức đơn giản chỉ là “cái xắc xinh xinh” chuyên để đựng những văn kiện, giấy tờ quan trọng và chiếc “ca lô đội lệch” đầy tinh nghịch. Sự đáng yêu của em còn được thể hiện qua hình ảnh so sánh đẹp đẽ “Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng” , có lẽ không còn hình ảnh nào phù hợp hơn hình ảnh những chú chim chích bé nhỏ để ví von với chú bé Lượm hồn nhiên, yêu đời.
Một hình ảnh so sánh vừa chính xác, tinh tế nhưng đồng thời còn thể hiện được tình cảm yêu mến PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả đối em. Để nhấn mạnh hơn nữa vào nét ngây thơ của em, tác giả còn dẫn trực tiếp lời nói hết sức chân thật, đáng yêu: “Cháu đi liên lạc/ Vui lắm chú à/ Ở đồn Mang Cá/ Thích hơn ở nhà” .
Niềm vui, sự hân hoan của Lượm chính là niềm vui khi được hoạt động cách mạng, khi được cống hiến cho đất nước, đây cũng là niềm vui chung của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuộc gặp gỡ diễn ra hết sức ngắn ngủi, nhưng cho đã phần nào cho người đọc thấy những nét tính cách tốt đẹp của Lượm: vừa tinh nghịch, hồn nhiên nhưng cũng hết sức nhiệt huyết với cách mạng.
Giây phút hồi tưởng bỗng chùng xuống, khi nghe tin cháu đã hi sinh trên đường đi làm nhiệm vụ: Đến ngày tháng sáu/ Chợt nghe tin nhà. Câu thơ là nỗi niềm nghẹn ngào, bàng hoàng, chẳng thể nói nên lời ebook epub prc của tác giả:
Hình thức câu thơ vô cùng đặc biệt, được ngắt làm đôi, như tiếng nấc nghẹn PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả trước tin Lượm đã hi sinh khi trên đường đi làm nhiệm vụ. Đồng thời câu thơ còn thể hiện sự bàng hoàng, không tin rằng Lượm hi sinh là sự thật. Sau phút nghẹn ngào, tác giả nói về quá trình làm việc và sự hi sinh anh dũng của chú bé.
Hình ảnh của Lượm được khắc họa là một chú bé gan góc, kiên cường dũng cảm. Chú bé làm nhiệm vụ đưa thư, phải di chuyển qua những nơi vô cùng nguy hiểm và phải đối mặt với thần chết bất cứ lúc nào: “Vụt qua mặt trận/ Đạn bay vèo vèo/ Thư đề thượng khẩn/ Sợ chi hiểm nghèo?” .
Mặc dù luôn ý thức được sự nguy hiểm rình rập khi “đạn bay vèo vèo” xung quanh nhưng chú bé không hề sợ hãi vẫn “vụt qua mặt trận” bằng tinh thần dũng cảm, đầy trách nhiệm. Chú bé không bao giờ lùi bước trước những khó khăn, nguy hiểm.
Nỗi đau đớn càng được nhân lên gấp đôi khi tác giả tái hiện chân thực sự hi sinh của người đồng chí nhỏ: Bỗng lòe chớp đỏ/ Thôi rồi Lượm ơi!/ Chú đồng chí nhỏ/ Một dòng máu tươi!” . Trong một khổ thơ bốn câu tác giả đã sử dụng liên tiếp hai câu cảm thản, cho thấy sự ngỡ ngàng, đau đớn đến tột cùng khi Lượm đã hi sinh, câu thơ vang lên thật đau xót biết nhường nào: “Thôi rồi, Lượm ơi!” .
Làm sao có thể tin nổi, đứa bé hồn nhiên, tinh nghịch, người đồng chí giàu lòng dũng cảm và trách nhiệm ấy lại hi sinh khi còn quá nhỏ. Tác giả không tin rằng đó là sự thật, câu thơ buông xuống thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng. Lượm hi sinh, trở về với đất mẹ, tay em vẫn nắm chặt bông, phảng phất xung quanh là hương lúa, hương của đất mẹ, tuy em đã chết nhưng linh hồn, tinh thần yêu nước của em vẫn còn sống mãi với mọi người, với quê hương đất nước.
Hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ không buồn thảm, bi ai mà thay vào đó là hình ảnh em bé với sự hồn nhiên, tinh nghịch được tái hiện lại một lần nữa. Dù em có hi sinh nhưng tinh thần anh dũng, sự hồn nhiên đáng yêu của em sẽ mãi được mọi người nhớ đến, em sẽ sống mãi với non sông, đất nước.
Tác phẩm sử dụng thể thơ bốn chữ, dùng linh hoạt các từ láy giàu giá trị tạo hình, giàu tính nhạc, ngôn ngữ miêu tả phù hợp tính cách, ngoại hình của nhân vật. Không chỉ vậy sử dụng những hình thức câu thơ đặc biệt đã giúp tác giả biểu lộ một cách chân thật những cung bậc cảm xúc khác nhau trước nhân vật trữ tình.
Ngoài ra cũng cần đặc biệt lưu ý đến việc tác giả thay đổi cách xưng hô với nhân vật trữ tình trong các khổ thơ: chú bé, cháu, Lượm, chú đồng chí nhỏ bởi quan hệ giữa họ vừa là quan hệ chú cháu, vừa là một người đồng chí.
Sau cái chết của Lượm, tác giả đã gọi là “chú bé” bởi lúc này Lượm và tác giả không chỉ nằm trong mối quan hệ riêng giữa hai người, mà Lượm đã trở thành người cháu chung của nhân dân Việt Nam, một người trẻ dũng cảm. Sự thay đổi linh hoạt các đại từ xưng hô như vậy khiến Tố Hữu thể hiện được đa dạng các cung bậc cảm xúc. Tất cả những yếu tố trên cùng với nội dung đã tạo nên thành công cho tác phẩm.
Với sự kết hợp hài hòa về nhịp điệu, ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, Tố Hữu đã xây dựng thành công chân dung của chú bé Lượm hồn nhiên, nhí nhánh mà vô cùng kiên cường, anh dũng. Qua đó tác giả thể hiện niềm yêu quý, cũng như sự xót xa trước sự hi sinh của Lượm.
2. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Lượm của Tố Hữu
Bài làm:
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thiếu nhi Việt Nam hăng hái làm theo lời dạy của Bác Hồ: Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, Tuỳ theo sức của mình. Nhiều bạn đã hi sinh tuổi thơ trong sáng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của dân tộc. Hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, dũng cảm trong bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại trong em niềm cảm phục sâu sắc.
Lượm theo bộ đội làm liên lạc hồi đầu kháng chiến (cuối năm 1946). Lúc này, Pháp chưa đánh rộng ra, Quân ta đóng ở đồn Mang Cá, một cứ điểm quan trọng của Huế. Trong một trận tấn công vào đồn giặc, Lượm hi sinh. Tác giả biết tin, vô cùng xúc động và đã sáng tác nên bài thơ này (1949).
Bằng cách kết hợp miêu tả với kể chuyện và biểu hiện cảm xúc, nhà thơ đã khắc hoạ sinh động hình ảnh chú bé Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái và dũng cảm.
Thể thơ bốn chữ cùng với nhiều từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu đã góp phần tạo nên thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
Mở đầu bài thơ, tác giả dựng lại khung cảnh buổi gặp gỡ đáng nhớ giữa hai chú cháu:
Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về, Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè.
Cuộc gặp gỡ đáng nhớ bởi nó diễn ra trong thời gian, không gian đặc biệt: Ngày Huế đổ máu. Huế đổ máu, Huế chiến đấu ác liệt để ngăn chặn bàn chân xâm lược của giặc Pháp vì chúng muốn chiếm lại nước ta. Ngày ấy là ngày mọi người không thể nào quên. Hoàn cảnh điển hình đó càng tô đậm thêm tính cách của nhân vật Lượm.
Trang phục của Lượm giống như trang phục của các chiến sĩ Vệ quốc bởi Lượm cũng là một chiến sĩ thực sự. Nhưng Lượm còn rất bé nên cái xắc đeo bên mình cũng chỉ xinh xinh. Chiếc mũ ca lô đội lệchbộc lộ vẻ tinh nghịch và hiếu động.
Lượm được nhà thơ miêu tả với tấm lòng yêu mến chân thành:
Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng…
Dáng Lượm loắt choắt, đã nhỏ lại gầy nhưng nhanh nhẹn và tinh nghịch. Chân thì thoăn thoắt, rất nhanh và rất nhẹ. Đầu nghênh nghênh, lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên kia. Nhịp thơ nhanh gợi lên hình ảnh chú bé vui tươi, nhí nhảnh, yêu đời.
Đặc điểm bên ngoài phần nào đã thể hiện tính cách bên trong của Lượm. Ca lô không chịu đội thẳng mà đội lệch. Miệng luôn huýt sáo vang. Lượm chẳng khác nào như con chim chích bé nhỏ nhảy trên đường vàng.
Lượm hồn nhiên kể chuyện:
– Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà!
Bấy giờ, cái gian khổ của kháng chiến trường kì chưa tới. Mọi người đang sống trong không khí phấn khởi hào hứng của độc lập, tự do sau Cách mạng tháng Tám. Cái vui của Lượm bắt đầu từ niềm vui của đất nước, của dân tộc. Lượm vui trong lòng, vui ngoài nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, lời nói. Tưởng chừng cái xắc cũng vui lây, cũng nhún nhảy theo nhịp chân của chú bé. Đeo xắc là dấu hiệu của người làm cán bộ. Lượm thấy oai lắm, ra vẻ lắm nên tỏ ra rất tự hào.
Giống như các bạn cùng lứa tuổi, Lượm rất hiếu động. Đặc điểm này đã được hướng vào những công việc có ích cho kháng chiến. Hình ảnh Lượm lúc chia tay tác giả thật đẹp và đầy sức sống:
Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân
Cả câu: Thôi chào đồng chí! cũng mang dấu ấn của niềm vui. Lượm chào chú bằng đồng chí, rất tinh nghịch, dí dỏm, mà cũng rất nghiêm túc, bởi Lượm đã tham gia kháng chiến, cùng chung lí tưởng cách mạng.
Đoạn thơ dùng thể thơ bốn chữ, nhịp nhanh, cùng nhiều từ láy (loắt choắt, thoăn thoắt, nghênh nghênh,… )góp phần thể hiện hình ảnh Lượm – một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.
Câu chuyện của Lượm trong chuyến đi liên lạc cuối cùng được kể qua lời của người kể với những cảm xúc đau xót, tiếc thương, tự hào được biểu hiện trực tiếp và qua cả cách nhìn, cách miêu tả.
Khi nghe tin Lượm hi sinh, tác giả đau đớn thốt lên:
Kỉ niệm về cuộc gặp gỡ với chú bé liên lạc còn tươi nguyên trong lòng nhà thơ thì bỗng dưng có tin chẳng lành. Câu thơ bình thường bỗng nhiên bị ngắt làm đôi. Âm điệu ngập ngừng và dấu chấm than thể hiện tâm trạng ngạc nhiên và xúc động đến bàng hoàng.
Tác giả hình dung ra tình huống hi sinh của Lượm thật cụ thể. Cũng như bao lần đi làm nhiệm vụ, Lượm dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái và đầy quyết tâm, không nề nguy hiểm:
Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề “Thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo?
Chiến trường đầy khói lửa nhưng Lượm vẫn xông pha làm nhiệm vụ. Bỗng loè chớp đỏ, Thôi rồi, Lượm ơi! Kể lại, hình dung lại sự việc mà tưởng chừng như tác giả đang tận mắt chứng kiến cái giây phút đau đớn ấy nên không kiềm chế được, tự đáy lòng bật thốt lên tiếng kêu đau đớn. Câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào đầy xót thương và cảm phục của tác giả, của chúng ta trước cái chết bấtngờ của người chiến sĩ nhỏ. Chú bé đã hi sinh anh dũng giữa tuổi thiếu niên hồn nhiên, tươi trẻ đầy hứa hẹn. Nhà thơ không dừng lâu ở nỗi đau xót mà ông cảm nhận rằng sự hi sinh của Lượm rất đỗi thiêng liêng, cao cả. Chú như một thiên thần bé nhỏ yên nghỉ trên cánh đồng quê hương và hoá thân vào đất mẹ:
Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng.
Bao quanh Lượm là sự sống mơn mởn đang lên. Hương lúa thơm như mùi sữa mẹ. Sự hi sinh của Lượm vô cùng nhẹ nhàng, thanh thản. Câu thơ: Hồn bay giữa đồng khẳng định tinh thần bất tử của Lượm. Lượm đã chết cho quê hương xứ sở.
Câu thơ Lượm ơi, còn không? là một câu hỏi tu từ được tách ra thành một khổ thơ riêng có tác dụng nhấn mạnh, đặc tả nỗi đau đớn xót xa và niềm bâng khuâng, nhớ tiếc khôn nguôi của tác giả.
Hai khổ thơ cuối lặp lại như một điệp khúc khắc sâu hình ảnh đẹp đẽ của Lượm trong tâm hồn mọi người:
Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng…
Lượm là bài thơ hay trong số những bài viết về tuổi nhỏ Việt Nam hồn nhiên, dũng cảm. Em thấy Lượm rất xứng đáng với những gương sáng của thanh thiếu niên thế hệ trước như Lí Tự Trọng, Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính, xứng đáng là đàn anh của những anh hùng dũng sĩ thiếu niên như Nguyễn Bá Ngọc, Kpa Klơng, Nguyễn Văn Hoà… thời đánh Mĩ.
3. Cảm nhận của em về nhân vật Lượm
Bài làm:
Hình ảnh Lượm trong bài thơ cùng tên PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả Tố Hữu đã để lại dư âm, ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là một em bé hồn nhiên, tinh nghịch yêu đời nhưng cũng vô cùng dũng cảm, kiên cường. Gấp cuốn sách lại có lẽ không ai có thể quên được chân dung, tính cách, phẩm chất quý báu của cậu bé ấy.
Hình ảnh Lượm hiện lên thật hồn nhiên, tinh nghịch qua lời kể của người chiến sĩ, nét hồn nhiên ấy thấm đượm trong cả ngoại hình, trang phục và hành động. Hình ảnh hồn nhiên của chú bé luôn hiện hữu, nhảy nhót trước mắt người đọc với cái dáng loắt choắt, bé nhỏ, những bước chân thoăn thoắt đeo bên mình chiếc xắc để đựng những phong thư chuyển đi khắp các chiến tuyến:
“Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh”
Công việc của chú bé vô cùng quan trọng và cũng chứa đầy sự hiểm nguy, nhưng trên gương mặt chú bé vẫn luôn giữ được nét hồn nhiên, ngây thơ: cười híp mí, má đỏ bồ quân; có nét tinh ngịch rất trẻ con: miệng huýt sáo vang, “Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng” .
Tác giả quả thật tài tình, khi đã tìm được một hình ảnh so sánh đẹp đẽ và chính xác đến vậy để nói về sự tinh nghịch của Lượm. Có lẽ không có hình ảnh nào phù hợp hơn hình ảnh những chú chim chích non, bé nhỏ di chuyển từ cành này qua cành khác để ví von với Lượm. Qua hình ảnh này, ngoài nét hồn nhiên người đọc còn thấy được sự yêu đời của chú bé.
Lời tâm sự của Lượm với người chiến sĩ cũng rất hồn nhiên: “Cháu đi liên lạc/ Vui lắm chú à/ Ở đồn Mang Cá/ Thích hơn ở nhà” , lời nói nhỏ đầy chân thật đó không chỉ cho thấy tinh thần làm việc hăng say, mà còn thể hiện niềm vui, sự hân hoan khi được hoạt động cách mạng, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc kháng chiến của dân tộc. Tinh thần yêu nước đó càng làm người đọc cảm phục và yêu mến Lượm hơn.
Lời chào cuối cùng giữa Lượm và anh chiến sĩ cũng thật ngộ nghĩnh: “Thôi chào đồng chí!” . Lời chào thể hiện tinh thần làm việc nghiêm trang của em. Không những vậy còn cho thấy niềm tự hào, kiêu hãnh những cũng vô cùng đáng yêu của chú bé khi được đứng vào hàng ngũ những người tham gia cách mạng.
Mưa bom bão đạn đã cướp đi sinh mạng của Lượm trong một lần chú bé đi liên lạc. Vô vàn hiểm nguy phía trước không thể ngăn cản bước chân anh dũng của Lượm, chú bé “Vượt qua mặt trận/ Đạn bay vèo vèo” bởi việc đưa thư là quan trọng nhất nên một vài nguy hiểm kia có là gì với chú bé.
Người đọc giật mình, sững sờ trước cái chết quá đỗi bất ngờ: “Bỗng lòe chớp đỏ/ Thôi rồi, Lượm ơi!/ Chú đồng chí nhỏ/ Một dòng máu tươi!” . Làm sao có thể tin nổi chú bé sổi nổi, nhiệt huyết, đầy tinh thần trách nhiệm ấy lại hi sinh. Câu thơ “Thôi rồi, Lượm ơi!” được ngắt làm đôi cùng với hình thức câu cảm thán, không chỉ là tiếng nấc nghẹn của tác giả, mà khi đọc đến đây độc giả cũng phải ngưng lại bởi nỗi xót xa, đau đớn trào dâng.
Câu thơ đã chạm đến những nỗi niềm cảm xúc sâu kín nhất trong lòng mỗi người đọc. Chú bé hi sinh, trở về với thiên nhiên, với đất mẹ thân yêu, tay em vẫn nắm chặt bông lúa, dù đã mất nhưng hình ảnh về sự hồn nhiên, đáng yêu và tinh thần quả cảm của em thì vẫn mãi sống trong lòng mọi người, hồn em mãi trường tồn cùng non sông, đất nước.
Góp phần tạo nên những dòng thơ thấm đẫm cảm xúc, tràn đầy xúc động không thể không kể đến những nét đặc sắc trong nghệ thuật của tác phẩm. Tố Hữu đã tỏ ra rất tài tình khi sử dụng thể thơ bốn chữ, nhịp thơ linh hoạt, sử dụng thành thạo các từ láy giàu giá trị tạo hình, lớp ngôn từ dồn nén cảm xúc đã tô đậm, làm rõ những phẩm chất đẹp đẽ của Lượm.
Gấp lại cuốn sách, dư âm, hình ảnh người anh hùng dũng cảm Lượm vẫn còn đọng mãi trong lòng người đọc. Lượm là đại diện tiêu biểu cho thế hệ anh hùng Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hi sinh vì sự độc lập, tự do của đất nước. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong hòa bình, tự do là nhờ công ơn to lớn của ông cha, bởi vậy, cần phải sống sao cho xứng đáng với thế hệ trước.
4. Phát biểu cảm nghĩ của em về tinh thần chiến đấu hi sinh của nhân vật Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu
Bài làm:
Viết về những gương thiếu nhi Việt Nam anh hùng, bài thơ Lượm của Tố Hữu là một tác phẩm đặc sắc nhất của nền thi ca kháng chiến.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn trong sáng đáng yêu của Lượm, nhà thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh và phầm chất anh hùng của chú đội viên liên lạc.
Hình ảnh Lượm bỗng “cao lớn” phi thường:
Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề: “Thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo?.
Giữa mặt trận đạn bay vèo vèo, chú liên lạc đã xông lên vượt qua, vụt qua. Hai chữ vụt qua thể hiện động tác chiến đấu nhanh nhẹn, quả cảm vô cùng. Không thể do dự và chậm trễ khi đang mang trên mình bức thư thượng khẩn. Vì nó là mệnh lệnh chiến đấu. Câu thơ sợ chi hiểm nghèo? vang lên như một lời thách thức, như một lời thề chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Người chiến sĩ nhỏ khác nào “một tiên đồng” đang dạo chơi trên đồng lúa trỗ đòng đòng. Từ láy “nhấp nhô” gợi tả một tư thế hồn nhiên, bình tĩnh của chú liên lạc trên đường băng qua mặt trận đầy khói lửa:
Đường quê vắng vẻ Lúa trỗ đòng đòng Nhấp nhô trên đồng….
Nhà thơ như đang “nín thở” dõi theo. Và Lượm đã ngã xuống. Câu thơ có lửa và máu, có lời than và nỗi đau. Hai câu cảm thán liên tiếp như tiếng nấc đau đớn cất lên:
Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi!.
Lượm đã chiến đấu vì quê hương. Lượm đã hy sinh vì quê hương. Lượm đã tử thương nhưng tay chú còn nắm chặt bông lúa. Lượm đã ngã xuống nhưng hồn chú vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng.
Đây là những câu thơ hay nhất nói về sự hy sinh của người chiến sĩ trên chiến trường. Tố Hữu đã sáng tạo nên một không gian nghệ thuật có hương lúa quyện hồn chiến sĩ vừa thân thuộc vừa bình dị, vừa bát ngát thiêng liêng. Chú đội viên liên lạc đã ngã xuống trong tư thế người anh hùng tuổi thiếu niên!.
Phần cuối bài thơ, Tố Hữu nhắc lại tám câu thơ ở đoạn đầu. Cấu trúc ấy được thi pháp gọi là “đầu – cuối tương ứng” hoặc kết cấu vòng tròn. Trong bài thơ này, cấu trúc ấy có một giá trị thẩm mĩ đặc sắc. Chú đội viên liên lạc đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận, nhưng tinh thần yêu nước, chí khí dũng cảm và tên tuổi người anh hùng tuổi thiếu niên vẫn bất tử, sống mãi trong lòng nhân dân ta. Có cái chết hoá thành bất tử, đó là sự hy sinh oanh liệt của Lượm. Tấm gương anh hùng của Lượm sáng mãi ngàn thu.
5. Phân tích bức chân dung chú Lượm liên lạc trong đoạn thơ sau của Tố Hữu
Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về, Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng. Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân – Thôi chào đồng chí Cháu đi xa dần..
(Trích bài thơ Lượm- Tố Hữu).
Bài làm:
Thơ hay vì trong thơ có họa, có nhạc. Lượm của Tố Hữu là một loài thơ như thế trong đó phần đầu bài thơ có lẽ đặc sắc hơn cả vì đã tạo nên bức chân dung chân thật, sinh động của một em bé liên lạc thời đánh Pháp với dáng người bé nhỏ, nhưng nhanh nhẹn, tinh nghịch mà yêu đời, tuổi nhỏ mà chí cao, rất đáng yêu đáng mến.
Đọc đoạn thơ, ta tưởng như đang được ngắm nhìn bức chân dung người chiến sĩ nhỏ hơn nửa thế kỉ trước.
Khổ thơ đầu nhắc lại một kỉ niệm khó quên lần gặp gỡ cuối cùng của nhà thơ với chú đội viên liên lạc, giữa hai chú, cháu trên thành phố Huế thân thương. Đó là những ngày Huế đổ máu, năm 1946, giặc đánh chiếm cố đô Huế, quê mẹ nhà thơ:
Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về, Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè.
Đoạn thơ nhắc lại, gợi lại một con người, nơi phố cũ thành xưa, thời gian đã qua nay đã trở thành kỉ niệm, hoài niệm. Sau câu chữ, vần thơ là cảm xúc, là nỗi nhớ thương lắng đọng, rung động nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn.
Tám câu thơ tiếp theo là những nét vẽ đầy ấn tượng về Lượm, chú đội viên liên lạc. Thân hình quá nhỏ bé, gầy gò loắt choắt. Trang phục người lính là cái xắc xinh xinh. Chú rất nhanh nhẹn, hiếu động, đáng yêu. Đôi chân thì thoăn thoắt.
Cái đầu thì nghênh nghênh. Các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh có giá trị gợi tả đặc sắc, làm hiện lên hình ảnh chú đội viên rất nhỏ bé, nhưng nhanh nhẹn, hồn nhiên, thật đáng yêu. Các từ láy đặt cuối câu thơ, liên kết thành hai cặp vần cách (1 với 3, 2 với 4) tạo nên nhạc điệu, âm điệu, đọc lên nghe rất thú vị:
Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh.
Chữ cái được điệp lại 3 lần qua 3 nét vẽ: cái xắc, cái chân, cái đầu đã làm cho nét vẽ sắc và khoẻ, giọng thơ trở nên hóm hỉnh, yêu thương.
Lượm ngây thơ và hồn nhiên, tinh nghịch và yêu đời. Dáng điệu và cử chỉ của chú thật đáng yêu biết bao: Ca lô đội lệch – mồm huýt sáo vang. Lượm khác nào con chim non cất tiếng hót rộn ràng, tung bay trong nắng mới, nhảy nhót trên đường vàng. Một so sánh thật đắt:
Như con chim chích Nhảy trên đường vàng
Con đường vàng một hình ảnh sáng giá tượng trưng cho con đường đầy nắng đẹp đi tới tương lai mà cách mạng đã đem đến cho thiếu nhi Việt Nam. Qua ngôn ngữ giàu hình tượng và biểu cảm, Tố Hữu dành cho chú đội viên nhiều trìu mến, trân trọng và yêu thương.
Những dòng thơ cuối đoạn, giọng điệu thơ thay đổi. Từ kể và miêu tả, Tố Hữu chuyển thành đối thoại. Cháu nói với chú niềm vinh dự lớn lao mà cháu được tham dự. Quê hương bị giặc chiếm đóng tàn phá, Lượm vui sướng được trở thành người chiến sĩ nhỏ cùng cha anh đánh giặc. Các từ ngữ như: Vui lắm, thích hơn đã biểu lộ một cách hồn nhiên tinh thần yẽu nước và nhiệt tình kháng chiến của Lượm:
– Cháu đi liên lạc – Vui lắm chú à – Ở đồn Mang Cá – Thích hơn ở nhà!
Quân đội đã trở thành đại gia đình của chú. Cuộc đời người đội viên liên lạc khác nào một cánh chim tung bay trong bão tố? Sao chẳng vui, chẳng thích, chẳng tự hào? Lượm là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp của tuổi nhỏ chí cao:
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ Tuỳ theo sức của mình Đi tham gia kháng chiến Để gìn giữ hoà binh.
(Thư trung thu – Hồ Chí Minh)
Nụ cười híp mí, và Má đỏ bồ quân là hai nét vẽ làm cho bức chân dung chú liên lạc thêm sinh động. Một tâm hồn trẻ trung, phơi phới hồn nhiên. Chú liên lạc đi xa dần sau một tiếng chào “đồng chí” nhiều thân thương:
Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân – Thôi chào đồng chí! Cháu đi xa dần….
Câu thơ Cháu đi xa dần như một dự báo: phút giã biệt ở phố Hàng Bè Ngày Huế đổ máu cũng là phút vĩnh biệt. Người chú chẳng bao giờ gặp lại người cháu thân thương ấy nữa!.
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ bốn chữ trong sáng, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh như một khúc đồng dao. Các từ láy tượng hình là những nét vẽ tinh tế nhất, biểu cảm nhất về chân dung ngứời chiến sĩ nhỏ, một liệt sĩ anh hùng, được thể hiện trong thơ ca kháng chiến. Bài thơ Lượm là một tượng đài chiến sĩ thiếu nhi anh hùng.
6. Dựa vào bài thơ Lượm của Tố Hữu, em hãy viết thành một bài văn ngắn theo lời của tác giả
Bài làm:
Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân ta quyết hi sinh tất cả để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do mà dân tộc ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc Pháp tấn côngvào Huế (1947). Không khí những ngày đó thật sôi sục. Nhân dân Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đoàn kết một lòng đánh giặc.
Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy? Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca lô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao! Chú bé cười, phô hàm răng trắng đều rồi sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.
Ồ! Thì ra là Lượm! Đứa cháu bé bỏng thân yêu của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như anh chiến sĩ vệ quốc thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:
– Cháu làm liên lạc chú à! ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu thấy vui ghê! Cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm liên lạc… Nhiều thứ lắm!
Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ửng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, chào tôi: “Thôi, chào đồng chí! ” kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì cháu đã trở thành đồng chí, đồng đội của tôi – một đồng đội tí hon.
Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận.
Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao lệnh của cấp trên tận tay những người chỉ huy trận đánh. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu đã ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi…
Mỗi khi nghĩ đến Lượm, tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hoà ánh nắng.
“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com”
Hướng Dẫn Soạn Bài Lao Xao Sgk Ngữ Văn 6 Tập 2
Hướng dẫn Soạn Bài 27 sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Lao xao sgk Ngữ văn 6 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 6 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 6.
Văn bản
1. Tác giả
– Duy Khán (1934 – 1993)
– Nguyên quán: Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh; trú quán: thành phố Hải Phòng; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
– Duy Khán sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo, từng tham gia nhập ngũ
– Tác phẩm đã xuất bản: Trận mới (tập thơ, 1972); Tuổi thơ im lặng (truyện, 1986); Tâm sự người đi (tập thơ, 1987).
– Nhà văn đã được nhận Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 với tác phẩm: Tuổi thơ im lặng.
2. Tác phẩm
– Lao xao được trích từ tác phẩm Tuổi thơ im lặng của Duy Khán (1985)
– Tác phẩm được giải thưởng Hội nhà văn năm 1987
– Tóm tắt:
Đọc – Hiểu văn bản
1. Trả lời câu hỏi 1 trang 113 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Bài văn tả và kể về các loài chim ở làng quê có theo một trình tự nào không, hay hoàn toàn tự do. Để trả lời câu hỏi này, em hãy:
a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.
b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?
c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.
Trả lời:
Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau.
a) Trình tự tên các loài chim được nói đến:
– Chim hiền: bồ các, chim ri, chim sáo, sáo sậu, sáo đen, tu hú, bìm bịp,…
– Chim dữ:
+ Diều hâu có mũi khoằm.
+ Quạ đen, quạ khoang.
+ Chim cắt cánh nhọn như dao.
– Loài chim đánh lùi các lũ chim ác: chèo bẻo.
b) Các loài chim được sắp xếp theo nhóm loài gần nhau (như câu a)).
c) Tìm hiểu ta thấy:
– Cách dẫn dắt lời kể rất tự nhiên.
– Cách tả mỗi con vật rất đặc trưng độc đáo cho hoạt động mỗi loài, nghệ thuật nhân hóa làm thế giới loài chim sinh động.
– Cách xâu chuỗi các hình ảnh bất ngờ hợp lí.
2. Trả lời câu hỏi 2 trang 113 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể là:
a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ ở điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).
b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.
c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.
Trả lời:
a) Cách miêu tả các loài chim:
– Bồ các: kêu váng lên (tiếng kêu các các, vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh).
– Sáo: hót , tọ tọe học nói
– Tu hú: đậu cây tu hú mà kêu to nhất họ.
– Chim ngói: sạt qua rồi vội vã kéo về.
– Nhạn: vùng vẫy tít trời xanh kêu chéc chéc.
– Bìm bịp: được kể bằng câu chuyện hấp dẫn như cổ tích.
– Diều hâu: mũi khoằm, tiếng kêu rú lên, lao như mũi tên đánh nhau bắt gà con, đánh hơi tinh lắm.
– Chèo bẻo: đánh diều hâu túi bụi, kêu chè cheo chét.
– Chim cắt: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn, khi đánh nhau chỉ xỉa bằng cánh.
→ Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót, loài trung gian được qua miêu tả màu sắc và tiếng kêu, loài chim ác qua miêu tả hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.
b) Kết hợp giữa kể và tả trong môi trường sinh sống hoạt động của chúng và trong mối quan hệ các loài:
– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc chéc”.
– Tu hú đến khi mùa vải chín, khi quả hết, nó bay đi đâu biệt.
– Bìm bịp kêu thì chim ác mới ra mặt.
– Diều hâu bắt gà con, chim cắt xỉa chết bồ câu, chèo bẻo đánh bồ câu và chim cắt.
– Nói về họ nhà sáo: Họ của chúng đều hiền cả. Chúng đều mang vui đến cho giời đất.
– Nói về chèo bẻo: Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.
– Nói vể chim cắt: Chúng là loài quỷ đen, vụt đến, vụt biến… cho đến nay chưa có loài chim nào trị được nó.
c) Nhận xét tài quan sát, tình cảm PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả với thiên nhiên làng quê qua việc miêu tả các loài chim
– Nhấn mạnh các đặc điểm riêng biệt, thế giới loài chim liên kết như một xã hội loài người có hiền, dữ, giải quyết bằng mâu thuẫn bạo lực,….
– Để miêu tả như vậy tác giả phải có tình cảm gắn bó với thiên nhiên làng quê sâu sắc.
3. Trả lời câu hỏi 3 trang 113 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hoá dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.
Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?
Trả lời:
Chất liệu văn hóa dân gian trong văn bản:
– Đồng dao: Bồ các là bác chim ri, chim ri là rì sáo sậu…. tu hú là chú bồ các..
– Thành ngữ: Dây mơ, rễ má; Kể cắp gặp bà già; lia lia láu láu như quạ vào chuồng lợn.
– Truyện cổ tích: Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo.
Chất văn hoá dân gian còn thấm đượm trong cái nhìn và cảm xúc của người kể vể các loài chim và cuộc sống ở làng quê. Đó là cách nhìn các loài chim trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là những thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo những quan niệm phổ biến và lâu đời trong dân gian, đôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như của con người (ví dụ: các nhận xét về bìm bịp, chèo bẻo).
Trong những quan niệm dân gian ấy, bên cạnh nét hồn nhiên, chất phác, không phải không có những hạn chế của cách nhìn mang tính định kiến, thiếu căn cứ khoa học (ví dụ: từ chuyện về sự tích chim bìm bịp mà cho rằng chỉ khi con chim này kêu thì các loài chim ác, chim dữ mới ra mặt…)
4. Trả lời câu hỏi 4 trang 113 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?
Trả lời:
– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…
– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.
Luyện tập
Trả lời câu hỏi trang 114 sgk Ngữ văn 6 tập 2
Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
Trả lời:
Quan sát và miêu tả một loài chim ở quê em:
– Đối tượng miêu tả: chim bồ câu, chim sẻ, chim chào mào, chim chích chòe, chim cút, chim sáo,…
– Vẻ ngoài: bộ lông, màu sắc, kích cỡ, …
– Tập tính sinh hoạt.
– Sự thích thú, tình cảm của em với loài chim ấy.
Bài tham khảo một số loài chim
Chiều nào cũng vậy, con hoạ mi ấy không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm xuân ở vườn nhà tôi mà hót.
Hình như suốt một ngày hôm đó, nó vui mừng vì đã được tha hồ rong đuổi bay chơi trong khắp trời mây gió, uống bao nhiêu nước suối mát trong khe núi, nếm bao nhiêu thứ quả ngon ngọt nhất ở rừng xanh. Cho nên những buổi chiều tiếng hót có khi êm đềm, có khi rộn rã, như một điệu đàn ai bấm trong bóng xế, mà âm thanh vang mãi trong tĩnh mịch, tưởng như làm rung động lớp sương lạnh mờ mờ rủ xuống cỏ cây.
Hót một lúc lâu, nhạc sĩ giang hồ không tên không tuổi ấy từ từ nhắm hai mắt lại thu đầu vào lông cổ im lặng ngủ, ngủ say sưa, sau một cuộc viễn du trong bóng đêm dày.
Rồi hôm sau, khi phương Đông vừa vẩn bụi hồng, con hoạ mi ấy lại hót vang lừng, chào sáng sớm. Nó kéo dài cổ ra mà hót, tựa hồ nó muốn các bạn xa gần đâu đó lắng nghe. Hót xong, nó xù lông rũ hết những giọt sương rồi nhanh nhẹn chuyển bụi nọ bụi kia, tìm vài con sâu, ăn lót dạ, đoạn vỗ cánh bay vút về phương Đông.
Quê hương em có rất nhiều loài chim như chào mào, chim chích, bồ nông,…nhưng quen thuộc nhất với em vẫn là chim sẻ. Vẻ ngoài của chim sẻ khá nhỏ nhắn. Cái đầu nó tròn, to cùng cái mỏ ngắn trông thật đáng yêu. Màu lông chim sẻ cũng khá phong phú. Có con toàn thân màu cỏ úa. Có con lại một màu nâu đen. Có con đặc biệt hơn với màu trắng ở cổ và bụng tạo thành sọc. Chân chim sẻ có bốn ngón, ba ngón trước và một ngón cái ở phía sau. Chúng tường kiếm ăn theo đàn khoảng ba đến chín con, cũng có thể đông hơn. Thức ăn của chúng là sâu bọ, các hạt thóc cỏ còn sót lại sau mỗi vụ thu hoạch. Do đó chim sẻ là người bạn thân thiết của nhà nông.
Các bài văn hay
1. Phát biểu cảm nghĩ về bài văn Lao xao (trích trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán)
Bài làm:
Bài văn Lao xao trích từ tập hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, một trong những tác phẩm được dư luận đánh giá cao trong mảng văn học thiếu nhi từ sau năm 1975 trở lại đây. Qua những kỉ niệm thời niên thiếu của mình ở một làng quê thuộc tỉnh Bắc Ninh, tác giả đã dựng lại bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt ở nông thôn thuở trước. Tuy đơn sơ, nghèo khó nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp tươi mát và ấm áp tình người.
Bằng đôi mắt quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến quê hương, nhà văn đã vẽ nên bức tranh sinh động, phong phú về thế giới các loài chim.
Sau mấy câu mở đầu miêu tả khung cảnh làng quê lúc chớm vào hè, tác giả tả và kể về một số loài chim quen thuộc. Các loài chim được chia theo hai nhóm. Nhóm chim lành gần gũi với con người như bồ các, sáo sậu, tu hú… Nhóm chim ác như diều hâu, quạ, chim cắt… Đặc biệt là chèo bẻo dám đánh lại lũ chim ác. Tác giả đã chọn ở mỗi loài chim một vài nét nổi bật về tiếng kêu, màu sắc, hình dáng, hoặc tập tính của chúng để miêu tả.
Khung cảnh làng quê lúc sang hè với bao màu sắc và hương thơm của các loài hoa quen thuộc, cùng với vẻ nhộn nhịp, xôn xao, tất bật của bướm ong:
Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi.
Đây là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp thể hiện vốn sống, vốn hiểu biết khá phong phú của tác giả. Thiên nhiên được miêu tả qua cái nhìn trong sáng và trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ. Từng loài chim được miêu tả trong mối quan hệ với con người, theo cách đánh giá của dân gian và ít nhiều mang tính biểu tượng cho từng loại người trong xã hội:
Con tu hú to nhất họ, nó kêu “tu hú” là mùa tu hú chín; không sai một tẹo nào. Cả làng có mỗi cây tu hú ở vườn ông Tấn. Tu hú đỗ ngọn cây tu hú mà kêu. Quả chín đỏ, đầy ụ như mâm xôi gấc. Tiếng tu hú hiếm hoi; quả hết, nó bay đi đâu biệt. (Quả tu hú tức là quả vải).
Bầu trời cao rộng, những cánh chim thoả sức vẫy vùng:
Một đàn chim ngói sạt qua rồi vội vã kéo nhau về hướng mặt trời lặn. Nhạn tha hồ vùng vẫy tít mây xanh…
Các loài chim dữ như diều hâu, quạ, chim cắt… chủ yếu được miêu tả qua đặc điểm hoạt động của chúng như diều hâu hay bắt gà con, chèo bẻo hay đánh nhau với diều hâu và chim cắt…
Tác giả kể chuyện con sáo nhà bác Vui tọ toẹ học nói, chuyện về sự tích con bìm bịp và tả những cuộc giao chiến giữa các loài chim: Ấy là nhũng con chèo bẻo. Chúng lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Lông diều hâu bay vung tứ linh, miệng kêu la “chéc, chéc”, con mồi rời mỏ diều hâu rơi xuống như một quả rụng. Diều hâu biên mất. Con diều hâu được mẻ hú vía, lần sau cụ bảo cũng không dám đến. Nếu có đến lại là con khác!
Người ta nói chèo bẻo là kẻ cắp. Kẻ cắp hôm nay gặp bà già. Nhưng từ đây tôi lại quý chèo bẻo. Ngày mùa, chúng thức suốt đêm. Mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người: “Chè cheo chét”… Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.
Đó là cách nhìn trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo quan niệm phổ biến lâu đời của dân gian, đôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như con người.
Qua những kỉ niệm thời niên thiếu, nhà văn Duy Khán đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ở nông thôn. Hiện thực cuộc sống đã trở thành chất liệu nghệ thuật dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn. Có thể nói Duy Khán đã gửi cả tâm hồn mình vào những trang viết mộc mạc, hồn nhiên và đầy chất thơ như thế.
2. Phân tích bức tranh thiên nhiên làng quê trong bài Lao xao
Bài làm:
Bức tranh thiên nhiên làng quê hiện lên trong đoạn trích Lao Xao của Duy Khán thật sinh động, gần gũi với mỗi chúng ta. Đọc văn bản ta như được hòa vào thế giới của các loài chim, của các bài đồng dao thấm đẫm chất dân gian,… và càng thêm yêu hơn phong cảnh làng quê Việt Nam.
Đoạn trích bắt đầu bằng không gian chớm hè, cái náo nhiệt, sôi động của mùa hạ đã tràn ngập khắp nơi: cây cối um tùm, tươi tốt, “cả làng thơm” , đó là mùi hương của “cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng… thơm như mùi mít chín….”. Những mùi vị vô cùng thân thuộc, gần gũi, dung dị, tự nhiên mà biết bao trìu mến với mỗi người.
Nhưng đâu chỉ có hương thơm, bức tranh còn trở nên sinh động hơn khi có sự góp mặt của những con ong, cái bướm. Nào ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đang đánh nhau, tranh giành nhau để hút mật, những chú bướm hiền lành lặng lẽ rủ nhau bỏ đi. Từng hình ảnh đẹp đẽ, êm đềm của một vùng quê thanh bình hiện lên khiến người đọc chẳng thể nào quên được.
Ống kính máy quay di chuyển đến những đứa bé ngây thơ, hồn nhiên, chúng tụ đang tập ở góc sân, bàn tán, nói chuyện râm ran với nhau. Và cũng chính lúc ấy thế giới của các loài chim đa dang, phong phú hiện ra.
Các loài chim được chia ra làm từng lớp từ chim hiền cho đến chim dữ, với tài năng quan sát và sự am hiểu thế giới loài chim Duy Khán còn chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của chúng. Bắt đầu là những chú bồ các với tiếng kêu váng trời, và loài chim này cũng thật đáng yêu khi vừa bay vừa kêu cứ như có ai đang đuổi đánh.
Qua lời chị Điệp nào chim ri, sáo sậu, sáo đen,…cũng lần lượt xuất hiện. Chúng đều là họ hàng của nhau và có cùng chung đặc điểm ấy là “hiền”, khi sáo sậu, sáo đen hót báo hiệu năm ấy được mùa; mỗi khi tu hú kêu là thông báo quả đã chín đỏ cây, quả không sai chút nào.
Len lỏi trong những âm vang vui tươi là tiếng kêu của những con bìm bịp. Để lí giải về tiếng kêu của loài chim này, Duy Khán đã kể lại ngắn gọn truyện Sự tích còn bìm bịp. Với sự đan xen hài hòa giữa truyện dân gian và mạch kể khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
Mỗi khi bìm bịp kêu là những loài chim ác, chim xấu xuất hiện. Cách tác giả chuyển từ miêu tả các loài chim hiền qua các loài chim dữ cũng thật tinh tế, thông qua tiếng bìm bịp kêu là sự xuất hiện của con diều hâu hung ác. Con diều hâu được tác giả mô tả các chi tiết về ngoại hình, đặc điểm: bay cao tít, mũi khoằm và đánh hơi rất tinh.
Thêm vào đó là hình ảnh của những con quạ đen, quạ khoang chuyên đi ăn trộm trứng,… Tiếp đến là loài chim cắt, cánh nhọn như dao chọc tiết lợn, chúng được ví như loài quỷ đen vụt đến vụt đi. Nhưng chúng cũng phải kiếp sợ trước sự đoàn kết của loài chèo bẻo. Những hình ảnh so sánh thật sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc hình dung được dáng vẻ bề ngoài, đặc điểm của các loài chim này.
Qua bức tranh nhiên thiên ở vùng quê, ta đã nhận thấy rõ tài năng quát sát tinh tường, sự am hiểu về thế giới các loài chim của Duy Khán. Đồng thời cũng thấy được tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả.
3. Bức tranh thiên nhiên làng quê trong Lao Xao
Bài làm:
Đọc xong đoạn trích Lao Xao (Trích Tuổi thơ im lặng – Duy Khán), gấp sách lại, trước mặt ta vẫn hiện lên một bức tranh làng quê Việt Nam xiết bao thân thương trìu mến, nồng ấm tình người.
Qua những trang viết hồn hậu của Duy Khán, làng quê Việt Nam hiện lên thật bình dị và êm ả. Chính cuộc sống yên ả ở làng quê đã trở thành sức thu hút của loài chim tụ họp về đây, sống chan hoà thân ái với con người.
Mở đầu bài văn là một không gian làng quê lúc chớm hè. Nét đặc đã quyến rũ biết bao là bướm, là ong tìm đến hút mật. Âm thanh lao xao của tiếng ong bay, tiếng ong đánh lộn tranh nhau hút mật đem lại cho người đọc một rung cảm nhè nhẹ và dư vị man mác, khó quên.
Nổi bật trên bức tranh cảnh sắc mùa hè tươi đẹp là hình ảnh của các loài chim. Không biết cơ man nào là chim, tưởng như đây là khoảng trời của riêng chúng.
Đầu tiên là những loài chim quen thuộc với làng quê và cũng rất gắn bó với cuộc sống của con người: chim, lành. Chúng gồm đủ các chủng loài khác nhau: Từ con bồ các đến chim ri, rồi sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn… Chúng họp thành một thế giới hồn hậu, đáng yêu với những âm thanh rộn rã, tưng bừng.
Ta giật mình trước tiếng kêu váng tai của chú bồ các “các… các… các…” , nhưng cũng cười thú vị trước sự hốt hoảng “vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh” của nó. Ta lâng lâng trước tiếng hót vui tai của chú sáo sậu, sáo đen, và thích thú trước âm thanh “tọc, tọc” học bắt trước tiếng người của con sáo nhà bác Vui. Rồi âm thanh náo động tưng bừng, da diết của tiếng chim tu hú như gọi về, như đánh thức trong ta bao hoài niệm, khiến lòng ta bồi hồi.
Tiếng chim tu hú trong bài văn gợi cho người đọc nhớ tới những mùa vải chín ngọt, gợi nhớ tới cả tiếng chim tu hú trong bài thơ của Bằng Việt.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Hoà vào những âm thanh rộn rã trên những ngọn cây, những đồng lúa, văng vẳng tiếng chao cánh của lũ chim ngói sạt qua, tiếng “chéc, chéc” của mấy chú nhạn vùng vẫy tít tận mây xanh.
Rồi bỗng vang lên mấy tiếng “bìm bịp” của mấy con bìm bịp núp trong bụi cây. Những tiếng kêu thật não lòng. Có lẽ, bao nhiêu nỗi oan ức mà nhân gian gán cho nú không gột rửa được hoá thành nỗi niềm gửi vào cả mấy tiếng kêu u uất, nặng nề dó. Thật tội nghiệp cho con bìm bịp, nó cũng là một giống chim hiền mà suốt ngày đêm cứ phải âm thầm chui rúc trong mấy bụi cây, chẳng dám vui vầy cùng họ hàng nhà chim.
Gắn bó với cuộc sống của con người, những loài chim lành đã được nhà văn nhìn nhận bằng con mất đầy thiện cảm, và mối thiện cảm ấy của ông truyền rất nhanh vào người đọc, khiến họ thấy gắn bó với các loài chim, với thiên nhiên, với làng quê.
Để tô thêm vào bức tranh thiên nhiên phong phú của làng quê, có hình ảnh của những con diều hâu đáng ghét chỉ biết rình trộm gà, hình ảnh của những con quạ xấu xí đáng khinh với cặp mắt “lia lia, láu láu” dòm ngó vào chuồng lợn, rồi lũ chim cắt ác độc đã xỉa chết bao nhiêu con bồ câu hiền lành.
Chúng là những loài chim ác nhưng chúng là một phần của thế giới các loài chim, một phần của sự sống. Mặc dù chúng hiện lên qua cái nhìn đầy ác cảm của nhà văn nhưng thiết nghĩ cũng không thể thiếu được chúng. Bởi thiếu chúng, làm sao có những cảnh tượng vui mắt của trận đánh của lũ Chèo Bẻo trị lại chim ác. Những cảnh tượng ấy làm cho bức tranh sinh hoạt của thế giới các loài chim thêm sống động, hấp dẫn.
Thế giới các loài chim khiến cho cuộc sống thêm hương vị, nồng ấm. “Lao Xao” là một bức tranh thiên nhiên đồng quê muôn màu sắc, một phần của cuộc sống làng quê được cảm nhận bằng một tâm hồn nhạy cảm, và được phác hoạ lại bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, tài hoa.
Phải gắn bó sâu sắc với làng quê, với thiên nhiên làng quê đến thế nào, phải yêu mến và trân trọng thiên nhiên và cuộc sống làng quê đến nhường nào, Duy Khánh mới có thể viết được những trang văn đặc sắc như thế.
Lao Xao sẽ mãi xao động trong tâm hồn người đọc!
4. Dựa vào bài văn Lao xao, xây dựng một văn bản tự sự
Bài làm:
Xóm chúng tôi ở gọi là Lao xao. Sở dĩ có tên như vậy là vì chỉ một cái xóm nhỏ thôi mà lúc nào cũng ầm ĩ đủ các loại âm thanh. Nhất là vào mùa hè.
Mới tinh sương đã có những tiếng cãi cọ, đánh lộn của lũ Ong vàng, Ong Vò Vẽ, Ong Mật tranh nhau hút mật hoa.
Cùng lúc đó, tiếng “chè cheo chét” gọi người thức dậy của bọn Chèo Bẻo. Cái bọn Chèo Bẻo này, được mệnh danh là kẻ cắp mà cũng biết gọi con người thức dậy đi làm à?
Rồi tiếng nói chuyện râm ran của bọn trẻ con.
Một bác Bồ các kêu váng lên. Bác này bao giờ cũng vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh. Tiếp theo là tiếng Sáo Sậu, Sáo Đen hót vang mừng được mùa. Chú Tu Hú kêu to nhất họ, cứ đậu trên ngọn tu hú mà kêu hoài “tu hú”, như than thở nỗi niềm gì. Một đàn chim ngói sạt qua, nghe rõ cả tiếng vỗ cánh.
Bọn Nhạn tha hồ vùng vẫy tít mây xanh ” chéc chéc”. Đến nửa buối, bọn Bìm Bịp rúc trong bụi cây thi nhau kêu “bìm bịp”.
Họ hàng nhà chim chúng tôi nghe đâu có họ hàng dây mơ rễ má cả! “Bồ Các là bác chim Ri. Chim Ri là dì Sáo Sậu. Sáo Sậu là cậu Sáo Đen. Sáo Đen là em Tu Hú. Tu Hú là chú Bồ Các…”.
Tôi nói họ hàng dây mơ rễ má là nói nhóm chim hiền chúng tôi. Chứ cái bọn chim ác thì ai thèm họ hàng với chúng.
Lại nói đến bọn chim ác, ở xóm chúng tôi có tới ba tay đồ tể. Đầu tiên phải kể đến Diều Hâu. Thân hình nó khá to nhưng đôi cánh lại khoẻ nên nó bay cao tít. Cái mũi khoằm của nó đánh hơi rất thính. Nó có thể “ngửi” thấy mùi gà con cách xa hàng tràm mét. Nó bay lượn trên cao, đảc đôi mắt tìm gà con. Khi tiếng nó rú lên thì gà con mau mà chạy vào nấp trong bụng mẹ! Thế mà nhiều khi vẫn không kịp. Từ trên cao, nó lao xuống như một mũi tên, mỏ đã quắp một con gà, rồi lại bay vút lên mây xanh, vừa lượn vừa ăn. Thật tội nghiệp cho những chú gà con xấu số!
Cùng họ với Diều Hâu là Quạ. Trước đây bọn Quạ chuyên đi ăn xác chết. Nơi nào có tiếng “quạ, quạ” cất lên thì y như rằng nơi đó có xác chết. Thế rồi xác chết không dễ cứ phơi đấy chờ Quạ ria. Thế là chúng xông cả vào chuồng lợn, khoét thịt lợn ăn. Những chú lợn thì quá hiền lại béo ục ịch, đâu dễ xoay xở để chống lại lũ Quạ Khoang, Quạ Đen đông khụ.
Chúa tể của bọn chim ác là những tên Cắt dao bầu. Gọi là Cắt dao bầu vì cánh chúng nhọn và sắc như lưỡi dao bầu. Nó chuyên dùng đôi cánh để tấn công, xỉa chết đối phương. Cánh chim hiền chúng tôi gọi là tên ác quỷ đen. Đã ác nó lại khoẻ và nhanh, vụt đến, vụt biến mất. Xưa nay chưa có loài chim nào trị được nó.
Phân chia hai phe hiền ác đã rõ ràng. Nhưng còn Bìm Bịp và Chèo Bẻo? xếp chúng vào bậc nào đây? Bìm Bịp tự nhận mình là kẻ bịp bợm (nghe nói trước đây có một ông sư hố mang. Lúc ông ta chết, giời bắt ông ta hoá thành con Bìm Bịp), nhưng tôi chưa thấy anh ta làm hại ai. Suốt ngày đêm chỉ rúc vào bụi cây kêu ‘bìm bịp”.
Còn Chèo Bẻo? Người ta cũng không hề có thiện cảm về anh ta. Phần thì anh ta nói năng quá bẻm mép. Phần thì có tin đồn thì anh ta cũng là một tay kẻ cắp.
Thôi, cứ tạm xếp hai tên này vào nhóm xấu vậy.
Bìm Bịp im lặng cam chịu tiếng xấu.
Chèo Bẻo thì khác, một bức thư khiếu nại được gủi tới cho Chủ tịch Hội đồng bô lão Bồ Các. Cụ Bồ Các bèn triệu tập Hội đồng bô lão. Họ ra quyết định: Nếu Chèo Bẻo muốn được nhận vào phe các loài chim hiền thì phải tự chứng minh.
Tự chứng minh bằng cách nào? Chèo Bẻo chất vấn.
Một cụ bô lão nảy ra một sáng kiến:
– Nếu không phải là đồng đảng của chim ác sao không ra tay trị chúng?
Sáng kiến này thật hay bởi vừa kiểm tra được Chèo Bẻo vừa trị tội được bọn ác quỷ vẫn ngang nhiên hoành hành làm ô nhục cả loài chim chúng tôi. Chèo Bẻo cũng thật gan dạ. Anh ta nhận lời. Và những cuộc quyết chiến đã diễn ra.
Hôm ấy, tôi đang ngồi trên một cành cây luyện giọng. Vì cụ Bồ Các bảo họ nhà Hoạ Mi tôi có giọng hót hay nên cử tôi luyện tập để chuẩn bị tham gia cuộc thi giọng hót hay toàn quốc. Bỗng tôi thấy thằng Diều Hâu lao vụt xuống đất rồi lại lao lên, miệng quặp chặt một con gà con, Diều Hâu chưa kịp ăn thì những mũi tên đen ở đâu tới tấp bay đến. Chà, Chèo Bẻo bắt đầu ra tay rồi. Họ đánh tên Diều Hâu túi bụi khiến lông nó bay vung vãi khắp nơi. Thằng Diều Hâu đành há miệng nhả chú gà con rồi biến mất. Tôi bỗng thấy mến mấy chàng Chèo Bẻo .
Ba hôm sau, lại xuất hiện một lũ Quạ. Chúng vào chuồng lợn. Quạ vừa bay lên, Chèo Bẻo vây đánh tứ phía. Có con Quạ chết rũ xương.
Sau trận này, mọi người không còn ác cảm với Chèo Bẻo nữa, nhưng vẫn không chịu kết nạp họ vào cánh chim hiền.
Chèo Bẻo không chịu bó tay. Dù có sợ tên ác quỷ đen Cắt đến mấy cũng phải quyết một trận sống mái, có thể mới rửa sạch nỗi oan. Và trận quyết thứ ba đã diễn ra. Rất ác liệt. Con ác quỷ đen lăm lăm hai lưỡi dao bầu xỉa vào Chèo Bẻo. Một vài chàng Chèo Bẻo đã bị thương. Mặc! Những chàng cảm tử khác vẫn lao vào. Cuối cùng, con ác quỷ không cự nổi, nó bị thương nặng, lộn mấy vòng trên không trung rồi rơi xuống cánh đồng. Những chiến binh Chèo Bẻo kiêu hãnh ngẩng cao đầu, bay đến gặp cụ Chủ tịch Hội đồng bô lão của phe chim hiền: Bồ Các.
Cả xóm Lao Xao lại rộn rã những âm thanh.
“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com”
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hướng Dẫn Soạn Bài Lòng Yêu Nước Sgk Ngữ Văn 6 Tập 2 trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!