Cập nhật nội dung chi tiết về Hội Họa Và Trang Trí Thời Trần (Phần 1) mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hội họa và trang trí thời Trần (Phần 1)
Nước ta ở xứ nhiệt đới, nắng gắt, dễ xảy ra hỏa hoạn; lại mưa to bão lớn, luôn bị lụt lội, độ ẩm trong không khí rất cao; những tờ tranh vẽ trên giấy, trên vải và cả trên gỗ nữa đều bị đe dọa, rất dễ bị hủy hoại. Rồi chiến tranh ngoại xâm, chiến tranh phong kiến, càng là những tai họa thường xuyên của nghệ thuật, nhất là của hội họa. Công trình hội họa cũng như các công trình nghệ thuật của dân tộc ta ở thời Trần, đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thế kỷ rưỡi (1257-1407), các cuộc chiến tranh xâm lược liên miên của giặc Nguyên – Mông, của phong kiến Chiêm Thành, của quân Minh, của hai mươi năm (1407-1427) đô hộ với âm mưu đồng hóa man rợ của chính quyền phong kiến Minh đã phá hủy biết bao công trình nghệ thuật dân tộc sáng tạo được trong mấy thế kỷ độc lập. Vì vậy trong tình hình tư liệu, chúng ta chưa tìm được một tác phẩm hội họa hoàn chỉnh nào của dân tộc ta ở thời Trần.
Do đó, nếu đòi hỏi về hình thức hội họa cổ Việt Nam nói chung, hội họa thời Trần nói riêng cũng phải như nghệ thuật hội họa châu Âu hay Trung Hoa, phải có tác phẩm hoàn chỉnh, thì ta có thể không có hay chưa phát hiện được. Thật ra, trong nền nghệ thuật tạo hình của dân tộc ta, ở thời Trần, chỉ bằng vào những dấu tích còn lại đến nay, cũng đủ thấy sự rực rỡ, không thể không có hội họa. Nhiều tài liệu văn tự của thời Trần đã xác nhận sự có mặt của hội họa thời ấy. Nhiều hình chạm nổi và khắc chìm có niên đại Trần, hoặc có phong cách nghệ thuật Trần, đã gián tiếp và trực tiếp cho ta biết những yếu tố, những hình vẽ của nghệ thuật hội họa thời Trần.
Những hình chạm nổi và hình khắc chìm trên các chất liệu gốm, gỗ và đá cho đến nay vẫn tồn tại tự thân thuộc về nghệ thuật chạm khắc, nhưng ở những hình có nhiều yếu tố hội họa thì hiệu quả nghệ thuật của nó lại gần với hiệu quả của tác phẩm hội họa, và với một kỹ thuật in riêng, thì hình chuyển sang giấy như tờ tranh đồ họa, có các nét tưởng như được vẽ bằng bút; và nó chứng tỏ sự phát triển của nghệ thuật hội họa. Đó chính là thuộc tính của nghệ thuật cổ Việt Nam, của nghệ thuật cổ một số nước ở phương Đông. Và ta thấy ở những hình ấy, nghệ sĩ sử dụng cái đục trong việc chạm nổi hay khắc rạch nét chim giống như vẽ hình lên mặt gốm, gỗ, đá.
Do chỗ các nghệ sĩ Việt Nam xưa không những vẽ bằng bút mềm, mà còn vẽ bằng vật cứng, nên ta tìm thấy những yếu tố hội họa ngay cả trong các hình trên các chất liệu gốm, gỗ và đá. Những yếu tố ấy là bằng chứng xác thực bổ sung cho tài liệu văn tự (sử sách, thơ văn, bia minh và truyện ký) của thời Trần viết về tranh, làm sáng tỏ thêm bộ mặt thật của hội họa thời ấy.
Sau những năm nông dân khởi nghĩa và chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến cuối thời Lý, triều Trần được thành lập. Những vua đầu của triều này rất chú ý khuyến khích sản xuất, làm cho kinh tế ổn định, xã hội phồn vinh, với bức tranh quê rất đẹp:
Trẻ chăn thổi sáo đuổi trâu về,
Cò trắng từng đôi lượn xuống đồng.
Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lúc này củng cố vững vàng hơn, tạo nên sức mạnh ba lần chiến thắng đế quốc Nguyên – Mông. Chiến thắng lẫy lừng đó tôi luyện thêm ý thức dân tộc và truyền thống yêu nước của nhân dân ta, củng cố nền độc lập của Tổ quốc, đưa uy tín Đại Việt lên rất cao.
Hào khí “Đông A” đã khiến cho sứ phương Bắc trước kia sang ta rất ngạo mạn, thì nay Trần Phu sau khi sang Đại Việt, về già còn phách lạc hồn xiệu:
Thấy giáo sắt lóe sáng mà lòng đau khổ,
Nghe tiếng trống đồng sợ tóc bạc trắng đầu.
May sao trở về thân còn khỏe mạnh,
Nhớ lại việc cũ mà vía bạt hồn xiêu.
Trên cơ sở ấy, một trào lưu văn hóa dân tộc phát triển mạnh mẽ. Riêng về mặt hội họa và trang trí, những giá trị đã có được ở thời Lý, nhưng một thời gian bị ngưng trệ, giờ lại dấy lên.
Sáu, bẩy trăm năm với vô vàn biến động lớn của lịch sử, các bức tranh của thời Trần đã bị hủy hoại nhiều nhưng thời gian đã chứng kiến và ghi nhận sự hiện diện của nó trên nhiều tài liệu khác nhau, đã khẳng định về một nền hội họa có thực ở thời Trần, và sự thâm nhập của nó vào chạm khắc, trang trí.
Tục xăm hình rồng có từ thời Hùng Vương, đến thời Trần càng phát triển mạnh mẽ. Từ vua quan cho đến quân dân đều vẽ rồi xăm hình rồng ở trước bụng, sau lưng và hai vế đùi. Tục này thịnh hành đến nỗi người Trung Hoa trông thấy gọi là “thái long” tức rồng vẽ. Lúc này người ta chẳng những quan niệm xăm hình rồng để hòa lần với thiên nhiên, khi xuống nước không bị giao long làm hại, mà còn nhằm nhắc nhở nhau về một nguồn gốc, như lời thượng hoàng dạy Trần Anh Tông: “Nhà ta vốn là người vùng hạ lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, thường thích hình rồng vào vế đùi… để tỏ là không bao giờ quên gốc”.
Với thói quen xăm hình, ngoài việc thích hình rồng, quân đội, gia nô và tội nhân còn thích lên trán những chữ về quân hiệu, loại gia nô và tội trạng. Đặc biệt, mọi người còn thích những chữ nêu rõ quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Cho đến đầu thế kỷ XIV, gia nô không thích chữ nữa, mà lại ghi dấu hiệu có tính tạo hình như hình viên ngọc hỏa châu có tia sáng tỏa ra giống như tia lửa, và hình cây dương, cây đường.
Xăm hình, thích hình lên cơ thể chính là một cách vẽ lên da thịt, ít nhiều có tính tạo hình trang sức. Sự phổ biến của việc xăm hình ở thời Trần thành tập tục, và mức độ nghệ thuật của nó đòi hỏi xã hội có hẳn những người thợ xăm chuyên nghiệp.
Nếu ít năm trước đấy, chúng ta còn được gặp những tờ tranh chữ và nghệ thuật viết chữ trang trí, thì ngay trong thời Trần, sử cũ cho hay việc làm này rất được chú ý. Chẳng những kinh sách được khắc in nhiều, mà cả con dấu cũng khắc bằng gỗ, và đặc biệt là nhiều lần viết chữ khắc vào đá. Chúng ta chưa rõ con dấu khắc gỗ của Trần Thái Tông giá trị như thế nào, nhưng với chiếc ấn đồng của một chức quan to khắc năm 1377 thì rõ ràng lối viết chữ và bố cục đã đạt trình độ nghệ thuật cao. Bia thời Trần có nhiều loại khác nhau, có tấm bia là cả một vạt núi, có tấm bia là khối đá bẹt tạo dáng theo hình cổng vòm. Một số bia còn lại đến nay như bia chùa Hưng Phúc, bia chùa Hướng Đạo, bia chùa Long Đậu…, đều có chữ tên bia khắc ở giữa trán theo kiểu viết chữ triện, hầu hết các nét được uốn cong tinh tế, nên tuy nét bẹt to đều, nhưng vui mắt, mỗi chữ như một hình vẽ có bố cục chặt chẽ.
Trên mặt bia chùa Hàn, ngoài những hình trang trí rồng mây, hoa lá và sóng nước, chính giữa được viết rồi chạm nổi một chữ “Phật” lớn. Chữ “Phật” này đòi hỏi người viết phải luyện tay và mắt như tập vẽ, nét rất tế nhị, có chỗ mở ra khoát đạt, có chỗ thon lại tinh tế, có chỗ xổ mạnh mẽ, có chỗ cong duyên dáng, có chỗ phẩy đột ngột. Các nét ấy được phối hợp trong cách sắp xếp khối chữ vuông chặt chẽ, thành một hình đẹp như tờ tranh đại tự ngày Tết, nên thoáng đãng, gợi ra cả chiều sâu và bề rộng của không gian.
Tiến thêm một bước nữa, các họa sĩ thời Trần còn sử dụng cây bút để làm đẹp cho nhiều đồ vật bằng những hình vẽ trang trí, khi thì bằng nét, khi thì bằng màu hoặc cả màu và nét.
Sử cũ cho hay, trong thời Trần, nghệ thuật thêu khá phát triển. Hình thêu chẳng những đòi hỏi phải có hình vẽ làm mẫu, mà bản thân nó cũng là một bức tranh “vẽ” bằng kim và chỉ màu.
Những người dân sống trên sông nước thì ngoài việc xăm hình rồng lên da thịt, họ còn cho vẽ lên đầu mũi thuyền hình con chim nghịch là một loài chim nước, giống như cò nhưng to hơn cò, có tài bay liệng, và không sợ sóng gió, nên vẽ như thế để tỏ ý cũng không sợ sóng gió.
Theo Trần Phu, năm 1293 y sang sứ nước ta, nhận thấy cờ của nhà Trần đã sử dụng các màu vàng, đen, xanh, đỏ và giữa bốn góc cờ có vẽ các hình ngôi sao, thiên thần hoặc các loài quỷ dữ. Như vậy, về mặt nghệ thuật, lá cờ còn là tác phẩm hội họa mà hình vẽ trên đó thể hiện những lực lượng siêu phàm che chở cho con người. Ở đây, về mặt ý nghĩa, ta có thể liên tưởng tới các tờ tranh thờ tồn tại trong cờ, vẫn theo Trần Phu, các quan đầu triều như thái sư Trần Quang Khải và thái úy Trần Hoa lại có những miếng gỗ tròn màu xanh rộng 6 xích, trên vẽ mặt trời, mặt trăng và hai mươi tám vì tính tú.
Qua thơ văn, ta biết ở thời Trần có một cái thú của những người được cuộc sống cho phép, là chơi bình phong vẽ. Ở thời Trần, người ta quan niệm trang trí bình phong là vẽ thu nhỏ thiên nhiên đã chọn lọc, và do đó mà bức bình phong vẽ được coi là tiêu chuẩn của thiên nhiên. Chính nhà giáo mẫu mực Chu Văn An đã từng phát biểu rõ cái quan niệm “đẹp như tranh” ấy:
Muôn lớp núi xanh chen chúc nhô lên như bức bình phong vẽ,
Ánh mặt trời buổi chiều chiếu xuống soi sáng nửa khe nước.
Và ngược lại, mỗi khi được thưởng thức một cảnh đẹp, người ta lại tin tưởng như mình được ngắm một bức tranh:
Người ở trong sân (đầy) cảnh vật mùa xuân tươi đẹp,
Mắt say sưa (với cảnh đẹp như) bức tranh gấm vóc.
Rõ ràng, tranh đã trở thành tiêu chuẩn của cái đẹp để mọi các khác so sánh với nó mà tìm ra mức độ đẹp của mình.
Trên một bức bình phong vẽ tranh phong cảnh, Phạm Mai đã đề thơ vừa trả tranh, vừa nói lên tâm tư băn khoăn trong cách xử thế mà họa sĩ gửi vào tranh:
Núi xanh ngàn dặm bóng tà.
Muốn gọi thuyền con về quách,
Rõ ràng nhà thờ mách với chúng ta bức bình phong được trang trí một cảnh sơn thủy hữu tình có những màu sắc đối nhau: đằng xa tít tắp là một quả núi xanh mát được mặt trời lúc sắp lặn chiếu vào rực rỡ, còn ở gần đối lập lại là cây đỏ tươi soi mình xuống khe nước trong đang chảy, mà trên dòng nước có một chiếc thuyền con bơi thong thả… Nội dung ở đây hoàn toàn phù hợp với tính chất trang trí bình phong là làm đẹp thiên nhiên, đưa thiên nhiên vào trong nhà.
Cùng với tranh trên bình phong, tranh vẽ trên quạt cũng được nhiều người ưa thích và thưởng thức. Tranh theo quạt đã mất, nhưng thơ đề tranh vẫn còn. Qua bài thơ ” Đề chiếc quạt vẽ phong cảnh do Liêu Nguyên Long tặng”.
Khó vẽ nên tranh cảnh nước Nam.
Gió mát tranh thanh đầy năm tháng,
Khắc khoải chim kêu dặng trúc ngàn.
ta được biết một bức tranh về thiên nhiên của xứ sở mến yêu. Thiên nhiên nhiệt đới rất giàu cảnh sắc, chỉ một mảng nhỏ thôi cũng làm các họa sĩ phải lao tâm khổ tứ mới vẽ được ngôi quán bên ao Tân An cỏ mọc xanh rờn, ánh trăng vằng vặc chiếu sáng không gian, những làn gió mát thổi suốt năm này qua năm khác, ngoài rặng tre chim đa đa kêu khắc khoải. Thú chơi quạt vẽ cảnh, rõ ràng đã có trong thẩm mỹ dân ta ở thời Trần, được mọi người yêu thích nên truyền mãi đến ngày nay.
Và sau nữa là những hình vẽ trên tiền giấy ” Thông báo hội sao” phát hành năm 1396. Theo sử cũ, ta biết những tiền giấy có giá trị tài chính khác nhau thì được mang những ký hiệu bằng các hình vẽ khác nhau: giấy 10 đồng vẽ rong, giấy 30 đồng vẽ sóng, giấy 1 tiền vẽ mây, giấy 2 tiền vẽ rùa, giấy 3 tiền vẽ lân, giấy 5 tiền vẽ phượng và giấy 1 quan vẽ rồng.
Nếu những hình vẽ trên nhiều vật dụng khác nhau (mà ta biết qua thơ văn), mới chỉ là những hình trang trí cho một cái gì đó, tồn tại trên hiện vật ấy, khi hiện vật mất đi khiến tranh mất theo, thì vẫn qua tài liệu văn tự, ta biết thêm ở thời Trần cũng có những tác phẩm hội họa độc lập. Đó là những bức chân dung, những bức vẽ người thực việc thực, những bức tranh phong cảnh không trang trí cho một vật dụng nào.
Nếu trong thời Lý, văn học chủ yếu nằm trong hàng ngũ sư tăng, thì từ thời Trần, nó trở thành đòi hỏi của nhân dân. Vì thế, sau vài mươi năm nắm chính quyền, nhà Trần phải đáp ứng yêu cầu ấy: Năm 1253 lập Viện Quốc học và xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước về đấy giảng học tứ thư lục kinh. Cửa Khổng mở rộng, việc giáo dục của Nhà nước phong kiến không phải chỉ bằng kinh thư, mà còn bằng cả nghệ thuật nữa: Quốc học viện vừa lập ra bèn tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh (tức Mạnh Tử), và vẽ hình bảy mươi hai người hiền để thờ. Bảy mơi hai người hiền được vẽ hình ấy là những học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử, đều là hình vẽ chắc hẳn là những mẫu người đã lý tưởng hóa mà nghệ sĩ thời Trần lĩnh hội và hình dung qua sự giảng giải của không được đảm bảo, nhưng hình tượng nghệ thuật ấy đã là những tác phẩm hội họa độc lập.
Tranh chân dung được vẽ nhiều nhất có lẽ vào năm 1289. Sau ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, năm 1289 nhà Trần duyệt định các công thần, xét công trạng cho những người đã tham gia các cuộc kháng chiến, ai có nhiều công lao xung phong lên trước, phá được trận tuyến của giặc, lập được nhiều chiến công đặc biệt, thì được chép chuyện vào sách ” Trung hưng thực lục” và được vẽ hình. Hình vẽ những dũng sĩ, những anh hùng chống giặc Nguyên – Mông, họa sĩ chẳng những được biết người, biết chuyện, mà còn khâm phục tài năng, trí dũng và đức độ của họ, cho nên hẳn là những bức chân dung ấy phải mang được cả hồn của thời đại và hồn của nhân vật, là những tác phẩm nghệ thuật chân thực, có sức sống và rung động lòng người.
Bức tranh có đề thơ mà Trần Bang Cẩn được vua bàn năm 1324 còn thể hiện mối quan hệ giữa họa và thơ. Ta không còn được thấy tranh, nhưng qua sử cũ, ta biết khá rõ về Trần Bang Cẩn là một đại hành khiển thượng thư tả bộc xạ, người tin thực, giữ gìn, giản dị, điềm tĩnh, không xa hoa… Và đặc biệt qua bài thờ đề trên tranh:
Hình dung cốt cách tựa cây thông,
Tướng mạo nghiêm trang thật đáng trông.
Mọi vẻ phong lưu tô được hết,
Khôn tô choi chói tấm lòng son.
ta có thể nghĩ đến một bức chân dung được họa sĩ mang tài năng ra để mô tả mọi vẻ đẹp của nhân vật, nhưng người xem mới thỏa mãn về những vẻ đẹp bên ngoài mà họ tin họa sĩ đã “vẽ được hết”, còn về nội tâm phong phú với những tính tốt của nhân vật, thì vẫn băn khoăn theo cái băn khoăn của họa sĩ là khó có thể lột tả được đầy đủ.
Cùng với chân dung Trần Bang Cẩn, ta biết thêm bức chân dùng Bùi Mộc Đạc nữa. Ông làm trung thư thị lang tri thẩm hình viện sự, tính người cẩn thận cung kính, văn chất khả quan, từng làm quan qua ba triều, nên được thượng hoàng Trần Anh Tông trong lúc hấp hối đã dặn Trần Minh Tông phải cất nhắc, đối xử cho khéo. Vua bèn sai vẽ chân dung cất ở kho sách, có ý sẽ dùng vào chức to, nhưng đến năm 1326, chưa kịp được vua thăng thưởng thì ông mất.
Tranh vẽ người thực việc thực có tác dụng giáo dục rất lớn, vì nó nêu gương sáng cho mọi người, nhất là người được tặng tranh, noi theo. Bộ tranh “Tứ phu” vẽ bốn người giúp vua khi vua còn nhỏ, do thượng hoàng Trần nghệ Tông sai thợ vẽ, ban cho Hồ Quý Ly năm 1394, chính là với dụng ý giáo dục sâu sắc. Tranh vẽ bốn vị quan to ở bốn triều đại xưa có tinh thần trung quân cao, trong đó ba người theo điển tích trong sử Trung Hoa là Chu Công giúp Thành Vương, Hoắc Quang giúp Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu Chúa, và một người lấy trong sử nước nhà là Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông. Ý tranh đã rõ, lời thượng hoàng dặn bảo Hồ Quý Ly lúc ban tranh lại càng khẳng định hơn nữa: “Khanh giúp quan gia (tức nhà vua) cũng nên theo như những người ấy”.
Về tranh vẽ cảnh vật, ngoài những hình vẽ trên bình phong, trên quạt, trên thuyền, trên tiền giấy …, còn có những tranh không nhằm trang trí cho một vật phẩm khác, mà độc lập là một tác phẩm hội họa hoàn chỉnh. Những tranh loại này bên cạnh giá trị thẩm mỹ, cũng chứa đựng một giá trị tư tưởng nhằm biểu dương hoặc phê phán một vấn đề nào đó, gợi ra một cái gì để người xem tranh phải suy nghĩ. Theo thơ văn đương thời, có một số tranh tuy không còn, nhưng ta còn được biết tranh qua thơ đề. Bức tranh “Con hạc vừa bay vừa ngoảnh lại” được Nguyễn Úc đề thơ:
Phất phơ dặng trúc đá một tòa,
Thung thăng vỗ cánh biếng bay xa.
Ngoảnh cổ quay đầu không phòng nạn,
E khi trước mắt lưới dăng ra.
Qua thơ đề, ta thấy lại được những nét lớn của bức tranh: Họa sĩ đã chọn một dặng trúc có chỗ thưa chỗ dày, có cây cao, cây thấp và tòa nhà đá cổ kính để làm nền, rồi trên cái nền ấy, con hạc đang dùng dằng lượn thong thả như không có ý muốn bay đi xa. Tình tiết trên tranh không nhiều, qua cái dáng của con hạc vừa bay vừa quay đầu nhìn lại, họa sĩ đã gợi cho người xem tranh suy nghĩ về những bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, những cạm bẫy dăng ngay trước mắt mà nhiều khi ta không để ý tới.
Nhà thơ Chu Đường Anh, trong bài thơ ” Đề tranh bầy cá chầu cá gáy”, mách với chúng ta một họa phẩm được ông đánh giá rất cao:
Chẳng tiếc ngàn vàng mua danh họa.
Biết bao diệu bút chất trong nhà,
Nào Đằng Vương bướm, Giang Đô mã.
Ai vẽ tranh này đẹp cực kỳ,
Lờ mờ trong làn sóng trắng xóa.
Hàng hạnh thấp cao tăm rập rình,
Lội bơi vùng vẫy những bầy cá.
Ngàn con tranh chầu ông đỏ đuôi,
Vật bé mọn kia biết chuộng loài.
Muôn sao lấm tấm chầu bắc đẩu,
Muôn dòng cuồn cuộn về đông xuôi.
Rõ ràng, đây là một bức tranh rất động: bầy cá và cỏ rong cũng đều có cuộc sống riêng, chúng như bật ra khỏi khung tranh để tham gia vào thế giới bên ngoài. Họa sĩ phải nắm rất vững những cảnh vật, những tình tiết của thế giới dưới nước, để phô bày trong làn nước trắng xóa, lờ mờ hiện ra cả một bầy cá con rất đông đang tung tăng bơi lội quanh một con cá gáy lớn, những rong cỏ cũng rập rình theo. Nét bút ở đây được họa sĩ thao túng với tài khéo lạ kỳ. Vì vậy theo nhà thơ, tác phẩm mang một giá trị nghệ thuật cao, trở thành họa phẩm vô giá, người hiểu biết cái đẹp ấy có được bức tranh này để treo trong nhà là niềm hãnh diện lớn:
Chẳng tiếc ngàn vàng mua danh họa,
Biết bao diệu bút chất trong nhà.
Những hình tượng bình thường trong tranh ấy, bằng nghệ thuật biểu hiện già dặn của họa sĩ, còn chứa đựng một giá trị tư tưởng lớn, kêu gọi sự đoàn kết trong giống loài. Với quan điểm triết học bấy giờ, người xem tranh thấy vật bé mọn còn biết chuộng loài, ngàn con cá nhỏ đều tranh nhau chầu về một con cá lớn, giống như muôn vạn ngôi sao nhỏ lấm tấm chầu quanh ngồi sao bắc đẩu, như muôn dòng nước cùng cuồn cuộn chảy xuôi về biển Đông…, do đó mà thấy mình phải gắn bó với mọi người để trở thành một tập thể lớn.
Như vậy họa phẩm thời Trần, với tư cách là tác phẩm nghệ thuật, chẳng những truyền đạt đến mọi người cái tình cảm thẩm mỹ mà họa sĩ đã thâu lượm được trong cuộc sống rồi gửi gắm vào từng đường nét và từng mảng màu, mà còn cho mọi người những suy nghĩ về nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra, và đòi được giải quyết, mà chính họa sĩ đã hé ra một con đường sáng.
Sự có mặt của hội họa trong nghệ thuật tạo hình thời Trần đã được chính người thời ấy khẳng định và kể lại với chúng ta. Ngày nay, chúng ta còn có thể biết được những yếu tố hội họa thời Trần qua những hình vẽ bằng đục của các nghệ sĩ chạm khắc gỗ và đá, những hình vẽ bằng vật cứng và vật mềm của các nghệ sĩ gốm.
Từ những hình chạm nổi trên gỗ ở chùa Thày, chùa Bối Khê, chùa Dâu, chùa Thái Lạc và ở xã Mỹ Thịnh, ta luôn thấy nghệ sĩ trong khi vận dụng thủ pháp chạm nổi nông, đã chú ý nhiều đến tiếng nói của đường nét đã làm cho những bức chạm có hình như tờ tranh đồ họa. Ở đó, các nét đục khi thì như nét bút vẽ chậm, lúc lại như nét bút vẽ thoăn thoắt hết sức lưu loát, đôi khi như nét bút vẽ tỉ mỉ thận trọng trong từng chi tiết. Sự chính xác và nhất quán của các hình chạm gỗ thời Trần còn xác nhận có hình vẽ mẫu sẽ dắt dẫn lưỡi đục sai khiến chất liệu, nên qua hình chạm của nghệ thuật điêu khắc, ta có thể gián tiếp thấy lại hình vẽ của nghệ thuật hội họa. Điển hình là mảng lưng ghế ngai ở chùa Thày chạm năm 1346 và các mảng chạm nhạc công, tiên nữ ở chùa Thái Lạc.
Mảng lưng ghế ngai ở chùa Thày, ngay dưới phần chạm được ghi rõ làm ngày 25 tháng 10 năm Bính Tuất, niên hiệu Thiệu Phong, cho biết rõ niên đại tuyệt đối là năm 1346. Hình chạm ở đây gần như được vẽ bằng đục, chất họa toát ra từng thớ gỗ. Dưới cùng là dải sóng nước cuồn cuộn, lớp trước lớp sau cứ rập rờn xô đẩy nhau như được vẽ nhanh thoăn thoắt, dứt khoát và chính xác; trên lớp sóng cồn ấy, làm nền cho toàn cảnh là những tia phát ra từ một điểm ẩn giấu ở giữa, ngay trên mặt sóng nước, có xu hướng uốn vênh lên tế nhị, làm thành một vòng sáng rực rỡ, nét chạm rành mạch như nét bút phết mạnh. Phía trước của quầng sáng, ở giữa có hai sừng, nhọn vắt chéo ngửa, lại còn được buộc bằng một dải vải mềm mại có hai đầu bốc lên bay trong gió; phía trên và phía dưới cặp sừng, mỗi phía có một u tròn lớn nổi hẳn lên, rồi từ u tròn trên bốc lên những hạt tròn nhỏ khác. Hai bên cặp sừng được cắm đứng thẳng hai chiếc rìu thờ còn có hai nhánh lá như ôm lấy cả chiếc lưng ngai. Tất cả những hình trang trí cận cảnh này đều có nét chạm như nét vẽ tỉ mỉ, từng chi tiết đều được chú ý. Toàn bộ hình có lớp trước lớp sau, tầng trên tầng dưới, đường nét nhịp nhàng và gắn bó với nhau trong một bố cục chặt chẽ, hình phân bố đăng đối giữa hai nửa phải và trái. Sự mạch lạc ấy chẳng những xác định phải có hình vẽ mẫu, mà ngay nét chạm như là nét vẽ bằng đục, và nét đục cũng thành công như nét vẽ. Ở đây, nghệ sĩ đã dùng đục để vẽ lên bức tranh hoàn chỉnh, cụ thể hóa những ý niệm trừu tượng, bằng những đường nét dứt khoát, nghiêm trang nhưng bay bổng, bằng những hình chắt lọc và cũng đậm nhạt theo ánh sáng rọi đến.
Tháp chùa Phổ Minh (Lộc Vượng, Mỹ Lộc, Ngoại thành Nam Định)
Gạch tháp chùa Phổ Minh: Mặt trên viên gạch
Gạch tháp chùa Phổ Minh: Mặt ngoài viên gạch có chạm hình rồng
Mặt trước nhà bái đường chùa Phổ Minh
Sơ đồ mặt bằng chùa Phổ Minh. Bản vẽ của Ty Văn hóa Hà Nam Ninh (Nguyễn Xuân Kế sao lại)
Tháp gốm thu nhỏ ở chùa Chò (Yên Phượng, Yên Lạc, Vĩnh Phú)
Sơ đồ vì kèo, chùa Thái Lạc (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hải Hưng) Bản vẽ của Viện Bảo tàng Mỹ thuật (Nguyễn Xuân Kế vẽ)
Vì nóc. Chùa Bối Khê (Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Sơn Bình)
Sơ đồ lăng Trần Anh Tông (An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh) Bản vẽ của Viện Bảo tàng Mỹ thuật (Nguyễn Xuân Kế vẽ)
Đầu bẫy (gỗ) của tòa thượng điện Chùa Bối Khê (Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Sơn Bình)
Sơ đồ mặt nam tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phú)
Bệ tam thế (đá ghép). Chùa Hào Xá (Thanh Hào, Thanh Hà, Hải Hưng)
Hình hổ trên bệ tam thế (đá) Chùa Bãi (Cát Quế, Hoài Đức, Hà Sơn Bình) Ảnh chụp bản dập mực
Hình quầng sáng nhọn đầu trên vách tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phú) Ảnh chụp bản dập mực nho
– Chu Quang Trứ –
Bài 1. Chép Họa Tiết Trang Trí Dân Tộc
Tuần: Ngày soạn: Tiết (KHDH) Ngày dạy :
Hoạt dộng 1: HD HS quan sát, nhận xét– GV giới thiệu cho HS xem một số họa tiết trang trí ở các công trình kiến trúc và các họa tiết ở trang phục các dân tộc để học sinh thấy được sự phong phú của nền văn hóa và tài hoa cuả các nghệ nhân Việt Nam.GV cho HS xem các họa tiết trong SGK và đặt một số câu hỏi gợi ý:+ Tên họa tiết? Họa tiết này được trang trí ở đâu?TL: Hoa, lá, mây, sóng nước…được trang trí trên các trang phục một số dân tộc miền núi…+ Hình dáng chung của các họa tiết?TL: hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật…+ Hình vẽ thường là những hình gì?TL: Hoa, lá, mây, sóng nước…+ Đường nét?TL: mềm mại, uyển chuyển, chắc khỏe…+ Bố cục được sắp xếp như thế nào?TL: đối xứng nhau qua trục ngang, dọcHoạt động 2: HDHS cách vẽ họa tiết– GV giới thiệu cách vẽ ở ĐDDH, ở SGK+ Vẽ chu vi (hình tròn, hình chữ nhật…) của họa tiết.+ Nhìn mẫu vẽ phác các hình, mảng chính.+ Nhìn mẫu vẽ các chi tiết cho đúng.+ Tô màu theo ý thích : tô màu họa tiết, nền.Hoạt động 3 : HD HS làm bàiHS: Tự chọn một họa tiết ở SGK hay họa tiết khác sưu tầm được để vẽ.+ Vẽ họa tiết vừa và cân đối với khổ giấy.+ Nhớ lại cách vẽ họa tiết( GV cất ĐDDH , xóa hình vẽ hướng dẫn trên bảng để HS tự vẽ)+ Vẽ xong tô màu tùy theo ý thích.GV: Góp ý, động viên HS làm bài. Bổ sung hay chỉ ra cho HS thấy được vẻ đẹp của hình, của nét vẽ ở họa tiết.Hoạt động 4 : Đánh giá kết quả học tập– GV tóm tắt và nhận xét một số bài vẽ của HS về ưu điểm, khuyết điểm, qua đó HS tự nhận xét và đánh giá bài làm của mình và của các bạn.1. Quan sát nhận xét các hoạt tiết trang trí– Họa tiết trang trí rất phong phú, đa dạng, có sắc thái riêng, thường có chung một số đặc điểm sau:a. Nội dung– Thường là các hình hoa , lá , mây , song nước, chim muông… có tính đơn giản và cách điệu cao.b. Đường nét– Mềm mại , uyển chuyển, phong phú.– Nét vẽ họa tiết của các dân tộc miền núi thường thể hiện bằng các nét chắc khỏe(hình kỷ hà)c. Bố cục
Trang Phục Dân Thường Thời Trần
1) Y phục
Tới thời Trần trang phục dân gian của nước ta vẫn tiếp nối các loại trang phục dân gian của thời Lý và còn phát triển hơn nữa
Trong “An Nam chí lược” Lê Tắc viết: ” Vương hầu và thứ dân thường mặc áo cổ tròm, thường bằng màu đen huyền, quần bằng là trắng, hài chuộng loại bằng da”
Sứ thần nhà Nguyên Trần Cương Trung trong Sứ Giao thi tập miêu tả:” Người trong nước đều mặc màu đen, áo đen có bốn vạt, cổ tròn bằng là. Phụ nữ cũng mặc áo đen, song áo trắng bên trong lộ rõ ra ngoài, ôm lấy cổ, rộng bốn tấc là khác biệt. Các màu xanh, đỏ, vàng, tía tuyệt nhiên không có” hoặc “Dân đều đi chân đất (…) da chân họ rất dày, leo núi như bay, gai góc cũng không sợ”
Uông Đại Uyên người Nguyên trong Đảo di chí lược miêu tả người Việt hạng giàu có khá giả :” Mặt trắng răng đen, thắt đai, đội mũ, mặc áo Đường, có áo trùm bên ngoài màu đen, tất tơ giày vuông (…) khi ở nhà họ để đầu trần, thấy khách thì đội mũ, đi đâu xa thì một người bưng mũ mang theo (…) thứ dân ngày thường ở nhà không đội mũ”
Về chất liệu may trang phục trong “An Nam chí nguyên”, tác giả Trung Quốc Cao Trùng Hưng thời Minh có đưa ra ghi nhận:” Vải vóc nước ấy (Nước ta thời cuối Trần – đầu hồ Hồ) thì có các loại the Cát Liễu, the hoa tim táo sợi thẳng, the hợp, lụa bóng bông, ỷ (Loại the lụa có hoa bóng chằng chịt, không dùng sợi thẳng), lĩnh, là, hài tơ khá lạ mà tốt. Hai thứ gai, tơ chuối thì được chắp lại làm vải, mịn như lụa nõn, rất hợp mặc vào mùa hè”Có thấy rõ tục đi chân đất, nhuộm răng đen của người nước ta vẫn tiếp tục tồn tại
Trang phục nam
Tranh vẽ áo vạt dài cổ tròn Trần ( Cả thời Lý nữa ) Nguồn từ “Đại Việt Cổ Phong” vẽ bởi Lục Bình
Tuy nhiên dựa vào bức tranh “Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ” có thể thấy người Việt thời Trần không chỉ mặc mỗi loại áo cổ tròn bốn vạt mà mặc cả áo giao lĩnh vạt chéo nữa
Áo cổ tròn 4 vạt của các quan thời Trần trong “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ”
Cũng trong bức “Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ” áo giao lĩnh vẫn xuất hiện
Ngoài ra nếu để ý kỹ bức tranh những người mặc áo giao lĩnh vạt chéo khênh võng đón Phật hoàng Trần Nhân Tông có thể thấy họ không mặc quần dài, đây chính là minh chứng rõ nhất cho tục đóng khố rồi mặc trùm áo giao lĩnh ra ngoài của đàn ông Việt Nam, tục này duy trì tới tận cuối thế kỷ 17 Ngoài ra Cu Khứ Phi trong “Lĩnh ngoại đại đáp” từng ghi rằng người Việt thời Lý có :” Lấy cao thơm chuốt tóc như sơn, bọc khăn the đen, đỉnh tròn và nhỏ, từ trán trở lên lên, nếp gấp nhỏ như may lên đến tận chóp”
Như vậy thời Lý ngời Việt cũng có tục vấn khăn tuy nhiên không phải kiểu vấn khăn xếp giống thời nhà Nguyễn vì kiểu vấn khăn đó chỉ xuất hiện quãng cuối thế kỷ 17 (Đoạn này mình định đưa vào hời Lý nhưng cuối cùng xếp vào vào thời Trần vì y phục thường dân 2 thời rất giống nhau)
Búi tóc chuy kế (Búi tó, búi củ hành…) rồi vấn khăn thời Nguyễn, đây không phải dạng vấn khăn như thời Lý – Trần
Minh họa về trang phục thời Trần lấy từ “Đại Việt cổ phong” tuy trên tranh ghi là trang phục thời Lý nhưng cách ăn mặc này thời Trần cũng vẫn dùng được nên mình lấy nó minh họa, kiểu vấn khăn thời Lý được vẽ ở tranh này khá hợp lý, nó bọc kín đầu chứ không để hở như thời Nguyễn có điều lại vấn lỏng chứ không chặt
Tranh trong “Tam tài đồ hội”(Thế kỷ 15) miêu tả người nước ta, có thể dễ dàng nhận thấy kiểu ăn mặc đóng khố mặc áo dài vẫn được duy trì
Cách ăn mặc của đàn ông Việt Nam rất gióng của Nhật, mọi người có thể thấy trong bức tranh của họa sĩ Utagawa Hiroshige (歌川 広重 – Ca Xuyên Quảng Trọng ) (1797 – 1858) những nhân vật trong tranh có người mặc áo dài nhưng đóng khố. đây là kiểu mặc trong những ngày nóng vừa để tiện lao động
Về trang phục nữ
Thông qua các miêu tả có thể thấy trang phục nữ thời Trần vẫn là dạng áo cổ tròn 4 vạt đi với thường và váy hoặc áo giao lĩnh vạt chéo đi với thường và váy (Xem lại phần trang phục nữ thời Lý phần trước ) 2 dạng trang phục này của nữ như đã viết còn được dùng tới tận cuối thời Lê – Trịnh
Phụ nữ Việt thời Lê Trung Hưng trong tranh “Văn quan vinh quy đồ” mọi người có thể thấy rõ kiểu dáng trang phục áo cổ tròn 4 vạt đi với thường + váy từ thời Trần vẫn còn tới thời này
Trang phục áo cổ tròn 4 vạt quây thường lấy sắc đen làm chính của phụ nữ thời Trần (Tranh vẽ lilsuika trên blog cá nhân, vẽ thế này chưa chuẩn lắm vì đời Trần hạn chế dân dùng màu đỏ, sắc áo chủ yếu là tối màu, thêm vào đó tranh chú thích là thời Lê, cái này thì đúng nhưng trang phục này có sự kế thừa từ thời Lý Trần nên mình vẫn đưa vào )
Thêm vào đó có một chi tiết trong “An Nam chí lược” đã được dẫn ở phần trước xin nhắc lại : “Thường phục coi màu trắng là cao quý, người trong nước mặc màu trắng bị coi là tiếm chế, riêng phụ nữ không cấm”Tức là phụ nữ nước ta thời Trần cũng chuộng mặc màu trắng, không e sợ
“Đại Việt sử ký toàn thư” có ghi năm 1291 khi Trần Thánh Tông mất, Anh Tông có nói với sứ nhà Nguyên:” Ta để cha, mặc áo đen, ăn rau cỏ, trai giới trong năm năm”
Trong “Minh thực lục” có ghi chép lời của Giao Chỉ Bố chính ty Lư Văn Chính tâu lên năm 1419 (Lúc này nước ta đang dưới thời Minh thuộc) :” Người Giao chỉ khi cha mẹ mất chỉ mặc áo đen. Xin đem tang lễ do quốc triều đặt định ban bố cho khắp dân gian, để họ biết”
Xem thế đủ biết nước ta thời Lý – Trần trang phục lúc để tang chủ yếu là màu đen, ít dùng màu trắng nên người ta mặc đồ trắng thoải mái không cho đó là điểm gở
Trước hết cần phải nói trang phục thời Lý – Trần của phụ nữ quý tộc cũng như các dạng trang phục khác đều chịu ảnh hưởng của trang phục đời Đường – Tống Phụ nữ quý tộc thời Đường Tống vẫn mặc dạng trang phục chủ đạo là áo giao lĩnh + váy + thường tuy nhiên cách kết hợp khác dân thường, quần áo thường bằng chất vải mỏng chờm nhiều lớp, chiếc Thường mà phụ nữ quý tộc Đường – Tống mặc rất dài, được mặc trùm lên váy, thay vì thắt đai lưng ở eo họ lại thắt cao hơn ở gần ngực, ngoài ra họ có thể mặc ngoài một áo giao lĩnh vạt chéo mỏng tạo nên vẻ thướt tha yểu điệu vừa tôn dáng người phồn thực vốn là chuẩn vẻ đẹp Đường – Tống
Phụ nữ quý tộc thời Đường trong bức Trâm Anh nữ sĩ đồ của Chu Phưởng
Các cung nữ thời Tống trong Đảo luyện đồ của Hoàng đế Tống Huy Tông
Cách phục trang này ảnh hưởng tới phụ nữ quý tộc thời Lý – Trần
Hình trên là pho tượng tại bảo tàng Bruxelles của Bỉ, được xác định niên đại là vào thời Trần, xuất hiện trong phim tài liệu “Đi tìm trang phục Việt”, trang phục được cho là của phụ nữ quý tộc đời Trần
Bản vẽ phục dựng lại bộ trang phục trên tượng trong phim tài liệu “Đi tìm trang phục Việt” bản vẽ này không ổn lắm vì vẽ không rõ trang phục thuộc dạng gì
Bản phục dựng với trang phục và người mẫu thật trong cùng phim tài liệu trên thì đỡ hơn vì cơ bản thể hiện được trang phục tuy nhiên quên mất cái Thường
Bản vẽ của lilsuika (Trên blog cá nhân) cũng được vì đã vẽ khá chuẩn trang phục thời Trần với áo 4 vạt kết hợp với thường tuy nhiên nét vẽ cổ áo mặc ngoài chưa rõ ràng không đủ để phân biệt là giao lĩnh vạt chéo
Cũng là tranh vẽ của lilsuika, bức tranh trên được chú thích là tranh vẽ từ tượng bà chúa Mạc tức là thế kỷ 15 – 16, tuy nhiên cách ăn vận thế này rõ ràng ảnh hưởng kiểu ăn mặc của nữ quý tộc đời Đường – Tống, phụ nữ qúy tộc đời Lý – Trần cũng mặc, đời sau tiếp thu theo
Ngoài ra cũng trong bộ phim tài liệu “Đi tìm trang phục Việt” có khai thác hình tượng các vũ công và tiên nữ được khắc và vẽ trong đình Lỗ Hạnh tại Hiệp Hòa – Bắc Giang, đình Lỗ Hạnh được xây vào nửa cuối đời Trần và được trùng tu vào thời Mạc, bởi thế trang phục được miêu tả chưa chắc đã là thời TrầnTuy nhiên cứ theo thần phả thì đợt trùng tu thời Mạc không đến nỗi đập sạch đi làm lại từ đầu kiến trúc gốc mà chỉ cơi nới sửa chữa, vậy cũng có thể đưa thêm tư liệu này vào đây để tham khảo với tư cách là trang phục của nữ quý tộc hoặc các ca vũ thời Trần
Cột kèo chạm gỗ hình vũ công (Trên) và bức tranh sơn ta miêu tả tiên nữ chơi nhạc (Dưới) trong đình Lỗ Hạnh
Bản phục dựng của lilsuika
Giáo Án Mỹ Thuật Lớp 6 Bài 1: Vẽ Trang Trí Chép Họa Tiết Trang Trí Dân Tộc
– Hoạ tiết trang trí dân tộc phong phú về hình dáng, đẹp về bố cục, đường nét, hình mảng.
– Thường được đối xứng qua 1 trục, 2 trục hay nhiều trục
Bài: tiết : Tuần dạy: Ngày dạy: Vẽ trang trí CHÉP HỌA TIẾT TRANG TRÍ DÂN TỘC 1 MỤC TIÊU: 1.1 Kiến thức: -HS Hiểu được nét đẹp trong các họa tiết trang trí cổ. -HS Biết cách khai thác, chọn lọc các đường nét hoa lá ở thiên nhiên và trong vốn cổ dân tộc ứng dụng vào bài tập. 1.2 Kĩ năng: - Biết khai thác và sử dụng họa tiết cổ vào bài học. - HS bước đầu biết cách khai thác đường nét trong trang trí cổ dân tộc vào bài trang trí cụ thể. 1.3 Thái độ: - Tự hào về những giá trị dân tộc mà ông cha để lại. - Yêu thích và có mong muốn tìm tòi ra những họa tiết dân tộc mới. 2. TRỌNG TÂM: - Hiểu được nét đẹp trong các họa tiết trang trí cổ, chép được 1 họa tiết. 3. CHUẨN BỊ: 3.1 Giáo viên: - Phóng to 1 số hoạ tiết trong Sách giáo khoa - Sưu tầm 1 số hoạ tiết dân tộc 3.2 Học sinh: - Sưu tầm các hoạ tiết ở sách báo - Giấy vẽ, chì, tẩy, màu sắc, thước 4. TIẾN TRÌNH: 4.1 Ổn định tổ chức và KTSS: 6a1: 6a2: 6a3: 4.2 Kiểm tra miệng Câu 1: Nêu vài nét về MTVN thời kì cổ đại ? Đáp án câu 1: 1. Thời kỳ đồ đá - Hình vẽ mặt người trên hang Đồng Nội (Hoà Bình) được vẽ cách đây 1 vạn năm. - Hình vẽ được diễn tả với góc nhìn chính diện, đường nét giản dị, rõ ràng, cách sắp xếp bố cục cân xứng. 2. Thời kỳ đồ đồng: Xuất hiện nhiều công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt và vũ khí, dìu, dao găm - Đồ đồng thời kỳ này được trang trí đẹp, tinh tế -Trống đồng Đông Sơn được coi đẹp nhất trong các trống tìm thấy ở Việt Nam vì: + Tạo dáng nghệ thuật độc đáo, chạm khắc tinh xảo và mang đậm văn hóa dân tộc. + Nghệ thuật rang trí trên thân trống là sự kết hợp giữa hoa văn hình học và hình chữ S với hoạt động của người chim thú một cách nhuần 4.3 Bài mới: HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HS NỘI DUNG BÀI HỌC *Hoạt động 1: Giới thiệu bài. Khi nói đến trang trí ta không thể không nói đến hoạ tiết. Hoạ tiết có thể là bông hoa, chiếc lá, con vật, đám mây, sóng nước... Các nghệ xưa đã tạo ra nhiều hoạ tiết trang trí đẹp. Để hiểu và vẽ được các hoạ tiết dân tộc chúng ta tìm hiểu bài hôm nay. *Hoạt động 2: GV hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét - Giáo viên giới thiệu 1 vài hoạ tiết trang trí ở các công trình kiến trúc và các hoạ tiết ở các trang phục dân tộc miền núi. - Cho học sinh xem các hoạ tiết trong Sách giáo khoa (phóng to) - Tên hoạ tiết, hoạ tiết này được trang trí ở đâu. - Bố cục sắp xếp thế nào? Hình vẽ mang nội dung gì? (hoa, lá, chim, thú, mây, sóng, nước...) Giáo viên Tóm tắt để học sinh thấy được vẻ đẹp đa dạng và ứng dụng rông dãi của hoạ tiết dân tộc - Hoạ tiết dân tộc có đặc điểm gì? * Hoạt động 3: GV hướng dẫn học sinh cách vẽ. - Giáo viên giói thiệu cách vẽ ở đồ dùng dạy học. - Qua hình vẽ em hãy nhắc lại cách chép hoạ tiết dân tộc ? - Giáo viên hướng dẫn học sinh cách chép hoạ tiết bằng cách đánh dấu các các điểm ( áp dụng đối với các hoạ tiết không cân đối) * Hoạt động 3: GV hướng dẫn học sinh làm bài - GV quan sát góp ý động viên học sinh làm bài - Lưu ý học sinh vẽ đúng đặc điểm của hoạ tiết I) Quan sát và nhận xét - Hoạ tiết trang trí dân tộc phong phú về hình dáng, đẹp về bố cục, đường nét, hình mảng. - Thường được đối xứng qua 1 trục, 2 trục hay nhiều trục II) Cách chép hoạ tiết dân tộc 1. Quan sát 2. Phác khung hình và đường trục 3. Phác hình bằng nét thẳng. 4. Hoàn thiện hình vẽ và tô màu III) Thực hành - Chép một hoạ tiết dân tộc và tô màu theo ý thích 4.4 Câu hỏi, bài tập củng cố: GV chọn 1 số bài học sinh đã hoàn thành dán lên bảng. - Em có nhận xét gì về hình vẽ của các bạn - Em thích nhất bài vẽ nào? Vì sao? - GV đánh giá xếp loại bài vẽ. 4.5 Hướng dẫn học sinh tự học: - Đ/v bài học ở tiết này: Sưu tầm và chép một số hoạ tiết trang trí và chép lại - Đ/v bài học ở tiết tiếp theo :Tìm hiểu bài 2: SƠ LƯỢC VỀ PHỐI CẢNH +Sưu tầm tranh ảnh thiên nhiên 5. RÚT KINH NGHIỆM *Nội dung: *Phương pháp: *Sử dụng đồ dùng- thiết bị dạy học:Bạn đang đọc nội dung bài viết Hội Họa Và Trang Trí Thời Trần (Phần 1) trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!