Đề Xuất 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 8 Tiết 76: Quê Hương (Tế Hanh) # Top 6 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 8 Tiết 76: Quê Hương (Tế Hanh) # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 8 Tiết 76: Quê Hương (Tế Hanh) mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tuần: 21 (Tế Hanha) Mục tiêu: Kiến thức: – Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Tế Hanh nói chung và ở bài thơ này: tình yêu quê hương đằm thắm. – Hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của con người và sinh hoạt lao động; lời thơ bình dị, gợi cảm xúc trong sáng, tha thiết. Kỹ năng: – Nhận biết được tác phẩm thơ lãng mạn. – Đọc diễn cảm tác phẩm thơ. – Phân tích được những chi tiết miêu tả, biểu cảm đặc sắc trong bài thơ. Thái độ: GD học yêu lao động và yêu quê hương đất nước. Trọng tâm: – Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Tấ hnah nói chung và ở bài thơ này: tình yêu quê hương đằm thắm. – Hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của con người và sinh hoạt lao động; lời thơ bình dị, gợi cảm xúc trong sáng, tha thiết. – Nhận biết được tác phẩm thơ lãng mạn. – Đọc diễn cảm tác phẩm thơ. – Phân tích được những chi tiết miêu tả, biểu cảm đặc sắc trong bài thơ. Chuẩn bị: 3.1 Giáo viên: Đồ dùng. 3.2 Học sinh: bảng nhóm. Tiến trình dạy học: 4.1.Ổn định tổ chức và kiểm diện: kiểm tra sĩ số. 4.2.Kiểm tra miệng: Không. 4.3 Giảng bài mới: Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung bài học Hoạt động 1: Vào bài. Tác giả nhớ quê hương trong xa cách trở thành một dòng cảm xúc chảy dọc đời thơ Tế Hanh. Cái làng trài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ ông, đã trở thành 1 điểm hướng về để ông viết nên nhữnh dòng thơ tha thiết, đau đáu. Trong dòng cảm xúc ấy, “quê hương” là thành công khởi đầu rực rỡ cho nguồn cảm hứng lớn trong suet đời thơ Tế Hanh. Với thể thơ 8 chữ, Tế Hanh đã dung lên một bức tranh đẹp đẽ, tươi sáng, bình dị về cuộc sống của con người và cảnh sắc của một làng quê ven biển bằng tình cảm que hương sâu đậm, đằm thắm. Hoạt động 2: Đọc – Tìm hiểu chung. GV hướng dẫn học sinh đọc: Giọng thơ nhẹ nhàng, trong trẻo, nhịp : 3 – 2 – 3 , hoặc 3 – 5 GV đọc mẫu, gọi học sinh đọc. 5 Em hãy nêu vài nét về tác giả? – Quê : Quảng Ngãi – Ông là nhà thơ mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nặng nổi buồn và tình yêu quê hương tha thiết. Quê hương là nguồn cảm hứng lớn trong suốt đời thơ Tế Hanh à nhà thơ quê hương. 5 Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ? ¢ Không giống phần lớn các tác phẩm đương thời, đây là một trong số ít bài thơ lãng mạn ngân lên những giai điệu thật là tha thiết đối với cuộc sống cần lao. 5 Bài thơ này thuộc thể thơ gì? GV cho học sinh giải nghĩa một số từ khó. 5 Phương thức biểu đạt của văn bản này là gì? 5 Nhân vật trữ tình? 5 Xác định bố cục của bài thơ? Hoạt động 2: Tìm hiểu văn bản. HS đọc 8 câu thơ đầu. 5 Đọc 2 câu thơ đầu, Tế Hanh giới thiệu gì về quê hương mình? 5 Tác giả tả cảnh trai tráng bơi thuyền đi đánh cá trong một không gian như thế nào? 5 Trong khung cảnh đó hình ảnh nào được miêu tả nổi bật ? ¢ Chiếc thuyền và cánh buồm. Cánh buồm: Dùng phép so sánh + ẩn dụ àgợi liên tưởng con thuyền như mang linh hồn, sự sống của làng chài à bút pháp lãng mạn : Tác giả tự hào, tin yêu về quê hương mình 5 Hình dung của em về con thuyền từ lời thơ có sử dụng phép so sánh : Chiếc mã. Thuyền: Phép so sánh + tính từ (hăng). 5 Có gì đọc đáo ở hình ảnh này? ¢ Cánh buồm: Dùng phép so sánh + ẩn dụ àgợi liên tưởng con thuyền như mang linh hồn, sự sống của làng chài à bút pháp lãng mạn : Tác giả tự hào, tin yêu về quê hương mình. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió ra khơi được so sánh với mãnh hồn làng sáng lên một vẽ đẹp lãng mạn. Hình ảnh quen thuộc đó bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và rất thơ mộng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài. Nhà thơ vừa vẽ ra cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn của sự vật. Sự so sánh giữa cái cụ thể hơn nhưng lại gợi vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả được cái chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh hồn của làng chài bằng hình ảnh buồm trắng giương to no gió biển khơi bao la đó? HS đọc diễn cảm 8 câu tiếp. 5 Không khí bến cá khi thuyền đánh cá trở về được tái hiện như thế nào? ¢ Một bức tranh sinh động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống, toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập, đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những caon cá tương ngon trắng thật thích mắt, từ lời cảm tạ chân thành trời đất đã sang yên “biển lặng” để người dân trài trở về an toàn với cá đầy ghe.. 5 Hình ảnh dân chài và con thuyền ở đây được miêu tả như thế nào? ¢ Dân chài rám nắng à miêu tả chân thật : Người dân chài khoẻ mạnh, nước da nhuộm nắng, nhuộm gió. 5 Em hiểu, cảm nhận được gì từ hình ảnh thơ “Cả thân xa xăm”? ¢ Cả thân xa xăm: Hình ảnh người dân chài vừa được miêu tả chân thực, vừa lãng mạn, mang vẻ đẹp và sức sống nồng nhiệt của biển cả : Thân hình vạm vỡ them đậm vị mặn mòi nồng toả “vị xa xăm” của biển khơi à vẻ đẹp lãng mạn. 5 Có gì đặc sắc về nghệ thuật trong lời thơ: “Chiếc thuyền thớ võ”, lời thơ giúp em cảm nhận được gì? ¢ + Nghệ thuật nhân hoá à con thuyền như một cơ thể sống, như một phần sự sống lao động ở làng chài, gắn bó mật thiết với con người nơi đây. 5Từ đó em cảm nhận được gì về vẻ đẹp trong tâm hồn người viết qua lời thơ trên ? ¢ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lắng nghe được sự sống âm thầm trong những sự vật của quê hương, là người có tấm lòng sâu nặng với con người, cuộc sống dân chài ở quê hương. Ở khổ cuối tác giả trực tiếp nói về nỗi nhớ làng quê hương khôn nguôi của mình. Vậy trong xa cách tác giả nhớ tới những điều gì nơi quê nhà? Học sinh đứng dậy trình bày. à Đến đây ta mới chợt nhận ra rằng: Tế Hanh đang ở một nơi xa quê hương viết về quê hương với tình cảm khôn nguôi. 5 Em có nhận xét gì về những điều mà Tế Hanh nhớ? 5 Có thể cảm nhận “Cái mùi nồng mặn” trong nổi nhớ quê hương của tác giả như thế nào? ¢ Đó là hương vị làng chài – mùi vị mặn mòi của muối biển, mùi tanh rong rêu, mùi tanh của cá và cả mùi vị mặn mòi của những giọt mồ hôi người lao động – hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương được tác giả cảm nhận bằng tấm tình trung hiếu của người con xa quê àĐó là vẻ đẹp tươi sáng, khoẻ khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động của sự sống, một tình yêu gắn bó, thuỷ chung của tác giả đối với quê hương . Hoạt động 4: Hướng dẫn tổng kết. 5Nêu ý nghĩa văn bản? 5 Nêu vài nét nghệ thuật? I. Đọc – Tìm hiểu chung: 1. Đọc: 2. Tìm hiểu chung: a. Tác giả – Tế Hanh (1921-2009) đến với thơ mới khi phong trào này có rất nhiều thành tựu. Tình yêu quê hương tha thiết là điểm nổi bật của thơ Tế Hanh. b. Tác phẩm: Quê hương được in trong tập Nghẹn ngào (1939), sau in lại ở tập Hoa niên (1945). c. Thể thơ: Thơ mới (Thể thơ tám chữ hiện đại) d. Giải nghĩa từ khó: e. Phương thức biểu đạt. Biểu cảm. f. Bố cục: – Hai câu đầu : Giới thiệu chung về “làng tôi”. – 6 câu tiếp : Cảnh đi thuyền ra khơi – 8 câu tiếp : Cảnh đi thuyền chở về bến – Khổ cuối : Tình cảm cảu tác giả đối với làng chài. II. Tìm hiểu văn bản: 1. Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá. * Hai câu đầu : Tác giả giới thiệu về quê hương thật hồn nhiên và giản dị: + Nghề : Đánh cá + Vị trí địa lí: Gần sông nước. à Toát lên tình cảm trong trẻo, thiết tha, đằm thắm bằng lời thơ bình dị. * Cảnh trai tráng bơi thuyền đi đánh cá: – Không gian: Vào một buổi sớm, gió nhẹ, trời trong à thời tiết tốt, thuận lợi. + Chiếc thuyền : Hăng như tuấn mã. à Ca ngợi vẻ đẹp dũng mãnh của con thuyền khi lướt sang ra khơi. + Cánh buồm: Giương như mảnh hồn làng. à Con thuyền như mang linh hồn, sự sống của làng chài. 2. Cảnh thuyền cá về bến – Không khí: ồn ào, tấp nập, đông vui. – Hình ảnh: cá đầy ghe, cá tươi ngon. – Lời cảm tạ chân thành trời đất à Bức tranh sinh động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống. – Dân chài xa xăm: àHình ảnh người dân chài mang vẻ đẹp và sức sống nồng nhiệt của biển cả. à Vẻ đẹp lãng mạn. – Hình ảnh chiếc thuyền: nằm imthớ vỏ à con thuyền như một cơ thể sống, như một phần sự sống lao động ở làng chài, gắn bó mật thiết với con người nơi đây 3. Nỗi nhớ quê hương – Biển Nỗi nhớ chân thành – Cá tha thiết nên lời thơ – Cánh buồm giản dị, tự nhiên, – Thuyền như thốt ra từ trái – Mùi biển tim. – Mùi nồng mặn : Vừa nồng nàn, nồng hậu lại mặn mà, đằm thắm. à Đó là hương vị làng chài, là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương được tác giả cảm nhận bằng tấm tình trung hiếu của người con xa quê àĐó là vẻ đẹp tươi sáng, khoẻ khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động của sự sống, một tình yêu gắn bó, thuỷ chung của tác giả đối với quê hương . III. Tổng kết: 1. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ là bày tỏ của tác giả về một tình yêu tha thiết đối với quê hương làng biển. 2. Nghệ thuật: – Sáng tạo nên những hình ảnh của cuộc sống lao động thơ mộng. – Tạo liên tưởng, so sánh độc đáo, lời thơ bay bổng, đầy cảm xúc. – Sử dụng thể thơ tám chữ hiện đại có những sáng tạo mới mẻ, phóng khoáng. 4.4 Củng cố và luyện tập. Thực hiện vẽ bảng đồ tư duy tổng kết bài học. 4.5 Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. – Đối với bài học ở tiết học này: + Đọc và học thuộc lòng bài thơ. + Viết đoạn văn phân tích một vài chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong bài thơ. – Đối với bài học ở tiết học tiếp theo: Chuẩn bị bài “Khi con tu hú”. 5. Rút kinh ngiệm: Nội dung: Phương pháp: Sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học:

Soạn Bài Quê Hương Của Tế Hanh Ngữ Văn 8

Soạn bài Quê Hương của Tế Hanh Ngữ văn 8

Bài làm

Bố cục của bài Quê hương được chia làm 3 phần:

+ Phần 1 (Bao gồm hai câu thơ đầu): Tác giả cũng đã giới thiệu về làng chài – quê tác giả.

+ Phần 2 (khổ thơ 2): Nói về chính cảnh ra khơi của người dân làng chài tươi vui, lãng mạn biết bao nhiêu.

+ Phần 3 (Chính là khổ thơ 3): Tác giả cũng đã tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.

+ Phần 4 (khổ thơ cuối): Nói lên được một nỗi nhớ quê hương của tác giả Tế Hanh

Câu 1 (Sách giáo khoa trang 18 sgk Ngữ văn 8 tập 2):Phân tích cảnh dán chài bơi thuyền ra khơi (từ câu 3 dến câu 8) và cảnh đón thuyền cá về bến (8 câu tiếp theo). Hình ảnh người dân chài và cuộc sông làng chài được thể hiện trong hai cảnh này có nét gì nổi bật đáng chú ý?

Tác giả Tế Hanh dường như cũng đã khắc họa sinh động cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi:

+ Hình ảnh đẹp như trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng → đã nói đến một cảnh buổi sớm mai đẹp trời, trong lành biết bao nhiêu.

+ Hình ảnh của người dân trai tráng bơi thuyền → Đây cũng chính là một hình ảnh trung tâm khỏe khoắn, luôn luôn tràn đầy sức sống.

+ Hình ảnh của đoàn thuyền như con tuấn mã (các động từ được dùng cũng vô cùng đặc sắc đó là hăng, phăng, vượt) → Thông qua đây thì Tế Hanh cũng đã diễn tả sức mạnh mang màu sắc huyền thoại, cổ tích.

+ Hình ảnh của cánh buồm (rướn thân trắng) trông như một mảnh hồn làng → Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho hồn cốt, biểu hiện cho cái thần thái của người dân miền biển. Vẻ đẹp mang tầm vóc, ý nghĩa lớn lao.

→ Thông qua đây người ta nhận thấy được chính cái khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đó cũng chính là một bức tranh lao động đầy sức sống và hứng khởi của người dân vùng biển.

– Có lẽ rằng chính hình ảnh cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến luôn luôn tươi vui, vẻ vang.

+ Người đọc cũng nhận thấy được một không khí đón ghe về: tấp nập một sự ồn ào, đông vui.

+ Thực sự chính hình ảnh người dân chài: làn da ngăm dám nắng, thân hình nồng thở vị xa xăm → vẻ đẹp của những người dân lao động luôn rắn chắc, khỏe khoắn mang phong vị người dân miền biển nơi quê hương của tác giả

+ Hình ảnh “cá đầy ghe” vui mừng, biết ơn làm sao vì biển lặng cũng đã mang cho họ những thành quả ngọt ngào và bội thu nhất.

+ Có lẽ chính với hình ảnh con thuyền: im, mỏi trở về nằm và nghe thấy được một chất muối thấm dần thớ vỏ

Tóm lại ta như nhận thấy được một cảnh tượng tươi vui, hào hứng của đoàn thuyền đánh cá cứ khi trở về được cảm nhận bằng hồn thơ dường như cũng thật là tinh tế biết bao nhiêu. Tất cả chứng minh được phải có được tình cảm sâu lắng thì mới có thể hiểu tường tận cuộc sống lao động vất vả đầy thi vị.

Câu 2 (Sách giáo khoa trang 18 Ngữ Văn 8 tập 2):Phân tích các câu thơ sau :

Cánh buồm giương to như mảnh hổn làng

Rướn thân trắng hao la thâu góp gió…

Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Lối nói ẩn dụ và biện pháp so sánh ở câu này có hiêu quả nghệ thuật như thế nào?

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

+ Hình ảnh cánh buồm: Cách buồm dường như cũng giương to, rướn thân, góp gió – Đây cũng chính là một hình ảnh cánh buồm thân thuộc được tả thực trong sự quan sát tinh tế nhất của tác giả.

+ Nghệ thuật so sánh ẩn dụ: Có thể nhận thấy được chính cái vô hình được gọi tên, cụ thể hóa bằng hình ảnh của cánh buồm dường như cũng đã rõ ràng đường nét, hình khối, màu sắc thật đẹp.

+ Câu thơ: rướn thân trắng bao la thâu góp gió: Như cũng đã thể hiện được một sự khoáng đạt, một sự hiên ngang mạnh mẽ như chính tính cách của người dân miền biển vẫn đương đầu với ngọn sóng, ngọn gió vậy.

+ Hình ảnh của cánh buồm mang ý nghĩa tượng trưng cho hồn cốt cũng như cho thần thái và cả tình cảm của người dân chài sông nước nơi đây:

Dân chài lưới làn da ngăm dám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

+ Nhận xét về hình ảnh tả thực đó là câu “làn da ngăm dám nắng” – Nói về những vẻ đẹp rắn rỏi, một vẻ đẹp vô cùng chắc khỏe nói lên sự từng trải trong cuộc sống lao động và cũng thật vất vả nắng gió của người đi biển.

+ Hình ảnh “thân hình nồng thở vị xa xăm” → Có thể nhận thấy được chính hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ thân hình nay cũng đã lại được cảm nhận bằng xúc giác – “mặn” vô cùng độc đáo.

+ Có thể nhận thấy được có một sự mặn mòi của biển cả ngấm vào từng hơi thở trong cuộc sống. Thế rồi cũng chính với một sự hòa quyện giữa con người với biển cả- nơi ngọn nguồn nuôi dưỡng.

→ Thông qua đây ta nhận thấy dược một biện pháp ẩn dụ không chỉ xây dựng hình tượng người dân miền biển khỏe khoắn, họ cũng đã từng trải mà còn làm nổi bật sự hòa quyện và bền chặt giữa con người và thiên nhiên nữa.

Câu 3 (Sách giáo khoa trang 18 Ngữ Văn 8 tập 2)Hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với cảnh vật, cuộc sống và con người của quê hương ông.

Có thể nhận thấy được chính tình cảm sâu nặng của tác giả đối với cảnh vật, cuộc sống. Lúc này đây thì con người thấm đượm trong từng câu chữ, xuyên suốt chiều dài của tác phẩm.

+ Có thể nhận thấy được chính hình ảnh quê hương miền biển luôn in đậm trong tâm trí của tác giả Tế Hanh cũng đã tạo nên mạch cảm xúc dâng trào thể hiện qua những hình ảnh thân thương đó chính là các hình ảnh con thuyền, buồm vôi, biển, cá bạc…

+ Thế rồi cũng chính với nỗi nhớ quê tha thiết, thế rồi cũng chính với tình cảm luôn hướng về quê hương nên từ đầu đến cuối vị mặn của biển dường như cũng đã lại bị ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí nhà thơ.

Câu 4 (Sách giáo khoa trang 18 ngữ văn tập 2)Bài thơ có những đặc sắc nghệ thuật gì nổi bật ? Theo em, bài thơ được viết theo phương thức biểu cảm, tự sự hay trữ tình?

– Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Quê hương được thể hiện:

+ Tế Hanh cũng đã sử dụng hình ảnh đặc sắc khắc họa được hình ảnh, đường nét, màu sắc của sự vật, đồng thời cũng đã lại tạo giá trị biểu cảm cao.

+ Có thể nhận thấy được chính phần nghệ thuật so sánh khiến việc miêu tả cụ thể hơn, khơi gợi ra được một vẻ đẹp bay bổng, lãng mạn.

+ Tế Hanh cũng đã lại sử dụng biện pháp ẩn dụ làm tăng sức gợi hình, gợi cảm.

– Tiếp đến chính là một phương thức miêu tả xen lẫn biểu cảm được sử dụng chủ yếu trong văn bản này:

+ Tế Hanh cũng đã miêu tả để tái hiện, khắc họa hình ảnh thân thuộc, tươi đẹp của làng biển quê hương ông.

+ Có thể nhận thấy được chính cảm xúc hồi tưởng trào dâng, tình cảm yêu quê hương tha thiết, cháy bỏng.

Bài 1 (Sách giáo khoa trang 18 sgk ngữ văn 8 tập 2)Học thuộc lòng và tập đọc diễn cảm bài thơ.

Học sinh tự học thuộc lòng và đọc diễn cảm bài thơ.

Bài 2 (Sách giáo khoa trang 18 sgk ngữ văn 8 tập 2)Sưu tầm, chép lại một số câu thơ, đoạn thơ vé tình cảm quê hương mà em ỹêu thích nhất.

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay.

(Quê hương- Đỗ Trung Quân)

Cần Thơ gạo trắng nước trong

Ai đi đến đó lòng không muốn về.

Minh Nguyệt

Soạn bài Trường từ vựng Ngữ văn lớp 8

Soạn Bài Quê Hương (Tế Hanh)

Soạn bài Quê hương (Tế Hanh)

Bố cục:

– 2 câu đầu: Giới thiệu chung về làng quê.

– 6 câu tiếp: Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.

– 8 câu tiếp: Cảnh thuyền cá về bến.

– 4 câu cuối: Nôn nao nỗi nhớ làng, nhớ biển quê hương.

Câu 1:

a. Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi được miêu tả trong 6 câu (câu 3 – câu 8).

– Câu 3 – 4: Thời điểm ra khơi là một buổi sáng đẹp trời, thời tiết rất thuận lợi cho việc đi biển: bầu trời cao rộng, trong trẻo, gió mát nhẹ, bình minh nhuốm màu hồng rực rỡ. Dân chài là những chàng trai căng tràn sức lực, háo hức ra khơi.

– Câu 5 – 6: Hình ảnh con thuyền băng mình ra khơi một cách dũng mãnh được ví như con tuấn mã đẹp và khỏe mạnh; một loạt từ ngữ diễn tả thế băng tới của con thuyền: hăng, phăng, mạnh mẽ, vượt càng tạo nên khí thế lao động hăng say, sức mạnh khoẻ khoắn của người dân chài.

– Câu 7 – 8: Hình ảnh cánh buồm trắng căng phồng, no gió ra khơi được so sánh với mảnh hồn làng sáng lên vẻ đẹp lãng mạn. Từ đó, hình ảnh cánh buồm căng gió biển quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng vừa thơ mộng vừa hùng tráng.

b. Cảnh đón thuyền cá về bến sau một ngày lao động (8 câu tiếp).

– Cảnh ồn ào, tấp nập trên bến khi đón thuyền về và niềm vui trước những thành quả lao động, gợi ra một sức sống, nhịp sống náo nhiệt.

– Hình ảnh người dân chài mang vẻ đẹp khỏe khoắn. Cuộc sống vất vả nhưng thi vị.

Câu 2: Phân tích một số câu thơ sử dụng biện pháp so sánh và ẩn dụ:

Cánh buồm gương to như mảnh hồn làng Rướm thân trắng bao la thâu góp gió ...

Hình ảnh cánh buồm được so sánh với mảnh hồn làng: cái vô hình, vô sắc được cụ thể hóa bằng hình ảnh có hình khối, đường nét, màu sắc. Cảnh mang hồn người, nhà thơ đã thổi vào cảnh linh hồn của làng chài. Cánh buồn vốn gắn bó, gần gũi trong cuộc sống của dân chài trở thành một hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tượng trưng.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Tả thực: dân chài lưới làn da rám nắng.

Sử dụng biện pháp ẩn dụ thể hiện cảm nhận bằng xúc giác (vị), cái vốn chỉ được cảm nhận bằng thị giác ( thân hình).

Những câu thơ tả cảnh thuyền cá về bến toát lên vẻ mặn mòi của biển, thấm đượm xúc cảm bâng khuâng thương nhớ của người con xa quê hương.

Câu 3:

Tình cảm của tác giả đối với quê hương thật đằm thắm, sâu sắc. Xa quê, tác giả luôn nhớ về quê mình với vị mặn mòi, màu xanh của biển, với cánh buồm trắng, những con thuyền ra khơi và những thân hình vạm vỡ của những người dân chài… Nếu không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người và cuộc sống lao động của làng chài quê hương thì Tế Hanh sẽ không có được những câu thơ xuất thần, độc đáo như vậy.

Câu 4:

– Giọng thơ mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.

– Hình ảnh so sánh giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao, phép nhân hóa.

– Phép ẩn dụ, đảo trật tự từ trong câu.

– Hàng loạt động từ mạnh, tính từ, phép liệt kê.

– Sử dụng phương pháp biểu đạt tự sự đan xen miêu tả và biểu cảm.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Phân Tích Bài Thơ “Quê Hương” Của Tế Hanh

Văn mẫu lớp 8 phân tích tác phẩm Quê hương

Đề bài: Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.

Dàn ý phân tích bài thơ quê hương của tế hanh

I/ Mở bài

– Nỗi niềm buồn nhớ quê hương là nỗi niềm chung của bất kì người xa quê nào, và một nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới như Tế Hanh cũng không phải là ngoại lệ

– Bằng cảm xúc chân thành giản dị với quê hương miền biển của mình, ông đã viết nên “Quê hương” đi vào lòng người đọc

II/ Thân bài

1. Hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ của tác giả

– “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới”: Cách gọi giản dị mà đầy thương yêu, giới thiệu về một miền quê ven biển với nghề chính là chài lưới

– Vị trí của làng chài: cách biển nửa ngày sông

⇒ Cách giới thiệu tự nhiên nhưng cụ thể về một làng chài ven biển

2. Bức tranh lao động của làng chài

a. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi

– Không gian “trời xanh”, “gió nhẹ”

⇒ Người dân chài đi đánh cá trong buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi

– Hình ảnh chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã”: phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển

– “Cánh buồm như mảnh hồn làng”: hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng của làng chài quê hương

– Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư thế bị động thành chủ động

⇒ Nghệ thuật ẩn dụ: cánh buồm chính là linh hồn của làng chài

⇒ Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống

b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về

– Không khí trở về:

+ Trên biển ồn ào

+ Dân làng tấp nập

⇒ Thể hiện không khí tưng bừng rộn rã vì đánh được nhiều cá

⇒ Lòng biết ơn đối với biển cả cho người dân chài nhiều cá tôm

– Hình ảnh người dân chài:

⇒ Bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm

3. Nỗi nhớ quê hương da diết

– Nỗi nhớ quê hương thiết tha của tác giả được bộc lộ rõ nét:

+ Màu xanh của nước

+ Màu bạc của cá

+ Màu vôi của cánh buồm

+ Hình ảnh con thuyền

+ Mùi mặn mòi của biển

⇒ Những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng

⇒ Nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương

III/ Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

– Bài học về lòng yêu quê hương, đất nước

Phân tích bài thơ quê hương – Bài tham khảo 1

Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng

Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.

Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.

Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.

Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên. Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.

Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.

Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.

Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngăm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền.

Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê, ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò, từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nỗi nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi.

Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khỏe khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.

Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê:

Tôi dang tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển Vẫn trở về lưu luyến bến sông

(Nhớ con sông quê hương – 1956)

Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hòa quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hòa vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.”Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.

Phân tích bài thơ quê hương – Bài tham khảo 2

Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình.

“Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lướiNước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồngChiếc thuyền hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làngRướn thân trắng bao la thâu góp gió Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Hai câu thơ như một lời kể tâm tình rất đỗi bình dị nhưng đã khiến người đọc hình dung được mảnh đất mà tác giả đáng sống là một vùng một biển, làm nghề chài lưới. Một ngôi làng giản dị, chân chất. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị đó khiến cho tác giả vẫn luôn mong ngóng, nhớ nhung khi xa quê hương.

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗKhắp dân làng tấp nập đón ghe vềDân chài lưới làn da ngăm rám nắngCả thân hình nồng thở vị xa xăm Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôiThoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơiLàng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy gheChiếc buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Những câu thơ tiếp theo gợi tả lên một khung cảnh tuyệt đẹp mỗi khi sáng mai thức dậy. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc khiến cho vần thơ trở nên trữ tình, tuyệt đẹp:

Một loạt từ ngữ mang tính chất liệt kê khung cảnh, không gian thanh bình, tươi đẹp của cảnh biển vào buổi sáng. “Gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những gì còn neo giữ trong lòng của tác giả khi nhớ về quê hương. Và một hoạt động vẫn diễn ra đầu ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả vẽ nên rất nhẹ nhàng nhưng khỏe khoắn.

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Nếu những câu thơ trên nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ này càng mạnh mẽ , quyết liệt và khỏe khoắn bao nhiêu. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giáu cá tính mạnh. Với động từ “phăng” đã phần nào gợi tả lên sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới.

Hai câu sau lại trở về với vẻ lãng mạn đến bất ngờ:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Khắp thân người nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Một hình ảnh bình dị, thân quen như cánh buồm nhưng trong thơ của Tế Hanh lại có hồn, đậm chất thơ. Phép so sánh cánh buồm “như mảnh hồn làng” có sức gợi rất sâu sắc, bởi rằng đối với những người làm nghề chài lưới thì cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một sự so sánh hữu hình và vô hình đã làm nên sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Con thuyền đã mang theo cả tin yêu, hạnh phúc và hi vọng của những người dân nơi đây.

Câu thơ khỏe khoắn và tự nhiên đã phần nào làm toát lên được khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển khơi.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc chiếc buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Tế Hanh đã miêu tả nên một bức tranh thiên nhiên và bức tranh lao động sáng tạo tuyệt vời nhất. Đó là niềm tự hào, sự ca ngợi quê hương, đất nước.

Đặc biệt, khung cảnh dân chài lưới chào đón thành quả sau một ngày căng thẳng vất vả được miêu tả chân thực và đầy niềm vui:

Hình ảnh dân làng “ồn ào”, “tấp nập” đã phần nào tái hiện được không khí vui tươi và phấn khởi của người dân chài sau một ngày hoạt động hết công suất. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được.

Và có lẽ hình ảnh con người mạnh mẽ, khỏe khoắn là hình ảnh trung tâm không thể thiếu trong bức tranh ấy

Hình ảnh thơ mặn mòi, đậm chất biển, vừa khỏe khoắn, vừa chân chất vừa mộc mạc toát lên được vẻ đẹp của những con người vùng biển quanh năm vất vả. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này.

Và có lẽ những hình ảnh thân quen nơi làng quê ấy đã khiến cho Tế Hanh dù đi xa nhưng vẫn không thể nào quên, vẫn nhớ về đau đáu:

Một khổ thơ dạt dào tình cảm, nghèn nghẹn ở trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê dạt dào khôn nguôi khi những hình ảnh thân quen ấy cứ ùa về.

Thật vậy bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả dành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chôn rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.

Phân tích bài thơ quê hương – Bài tham khảo 3

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Tế Hanh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, ông đã góp phần đem đến cho thơ ca Việt Nam một hương sắc mới mẻ và lạ lẫm. Nếu như đến với Huy Cận, ta bắt gặp một hồn thơ mang nặng nỗi đau đời, tuyệt vọng. Hay Chế Lan Viên, với nỗi đau được tạo nên từ một tâm hồn đang trỗi dậy với bao điều suy nghĩ, bao nỗi xót xa về cuộc đời. Thì đến với Tế Hanh, ta bắt gặp một hồn thơ mang một vẻ đẹp non tơ, trong trẻo khác lạ. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Quê hương” của ông được viết 1938 – khi đó nhà thơ mới tròn 17 tuổi.

Hai tiếng “quê hương” nghe rất thân thương, mộc mạc và gần gũi với mỗi con người Việt Nam. Đó là nơi ta sinh ra, cất tiếng khóc chào đời, là khi đi xa ta muốn trở về trong vòng tay của gia đình để được yêu thương, bao bọc. Vì vậy, trong tâm trí của mỗi người, quê hương rất đỗi quen thuộc, nó gắn liền với tuổi thơ là những giếng nước, gốc đa, với vườn rau, buồng chuối, với cánh đồng lúa mênh mông…. Còn quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước:

“Làng tôi” – hai tiếng được cất lên một cách rất tự nhiên. Tác giả muốn giới thiệu chung về làng quê của mình, một làng quê nghèo bình dị như bao làng quê khác. Ở đây người dân sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng, tiếng gió, với vị mặn của vùng biển thôn quê. Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, mà nhà thơ còn miêu tả cụ thể bức tranh làng quê thật sinh động, tỉ mỉ đến từng chi tiết:

Đến đây, một khung cảnh làng quê đang được mở ra trước mắt với một không gian bao la rộng lớn, với bầu trời cao rộng trong veo ngập ánh sáng. Cùng với gió nhè nhẹ nhuộm thêm ánh nắng hồng của buổi bình minh. Một ngày mới bắt đầu. Ngày mới tràn đầy năng lượng với tinh thần hăng hái của người dân ra khơi.

Bức tranh lao động được tác giả miêu tả cụ thể như đang được chứng kiến tận mắt vậy. Với lối viết độc đáo, đặc sắc bằng việc sử dụng biện pháp so sánh “con thuyền như con tuấn mã”, cùng với việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh “hăng, phăng, vượt”, thêm tính từ “mạnh mẽ” đã tạo nên một bức tranh vô cùng hùng vĩ.

Làm cho ta thấy được khí thế phăng phăng, một tinh thần dứt khoát của những người con đất biển, thấy được sức mạnh dũng mãnh của con thuyền băng băng như muốn vượt lên sóng vỗ, vượt lên gió to giữa không gian biển cả để vươn mình ra khơi.

Với tình cảm tươi trẻ và hồn nhiên, tác giả đã cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống bền vững của quê hương qua những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức sáng tạo. Chiếc thuyền, một hình ảnh bình dị mà thân quen nay được nhà thơ ví như “mảnh hồn làng”. Hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tưởng tượng.

Từ một vật vô tri vô giác, cánh buồm đã được ví như như một linh hồn rất đỗi linh thiêng của quê hương. Nó như một phần không thể thiếu, không thể tách rời của người dân làng chài. Chỉ có những người gắn bó rất gần gũi, có tình cảm yêu thương sâu nặng với cuộc đời, với làng chài ven biển và với con người nơi đây thì nhà thơ mới cảm nhận được một cách tinh tế đến vậy.

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Nếu như ở trên tác giả miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá với một khí thế sôi nổi, vui vẻ, năng động thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến cũng được nhà thơ khắc họa với một giọng điệu đầy sự phấn khởi, lạc quan:

“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”

Đoạn thơ là cảnh thuyền cá về bến sau một ngày lao động vất vả trên biển. Với việc sử dụng tính từ “ồn ào, tấp nập” đã toát lên một không khí náo nhiệt đầy hối hả của những người dân vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về với “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” nhìn bắt mắt.

Đã là dân vùng biển, thì cuộc sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Họ lao động vất vả để mong muốn có được cuộc sống no ấm hơn. Vì thế, giây phút đón người thân trở về bình an sau chuyến đi là niềm vui lớn lao hơn tất cả. Họ thầm cảm ơn trời đất đã cho sóng yên biển lặng để người dân trở về được an toàn.

Nổi bật lên giữa khung cảnh người người, nhà nhà đang tấp nập, nhộn nhịp thu hoạch cá là hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của những thân hình vạm vỡ, cường tráng quanh năm bôn ba vật lộn với đại dương bao la. Những thân hình ấy thấm đẫm những hơi thở, nhịp sóng và vị mặn nồng của muối biển.

Đến đây hình ảnh chiếc thuyền được tác giả nhân hóa lên giống như con người sau một ngày làm việc vất vả và giờ là lúc được nghỉ ngơi. Hình ảnh con thuyền đã trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Nó không còn là một phương tiện giao thông thông thường nữa mà nó đã trở thành một người bạn thân thiết của cư dân. Không chỉ con người mà cả chiếc thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, cái hương vị mằn mặn chan chát như thấm sâu thấm đậm vào từng làn da, thớ thịt của con người. Một bức tranh toàn cảnh đã được nhà thơ tái hiện lại vô cùng sắc bén.

Đằng sau bức tranh quê hương với những hoạt động của người dân làng chài trên vùng biển là nỗi lòng nhớ thương da diết của nhà thơ. Nhớ những gì gần gũi nhất, thân thương nhất, quen thuộc nhất của quê hương mình “như màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi”, đặc biệt nhớ cái mùi đặc trưng không thể lẫn đi đâu được của vùng biển, cái vị nồng mặn của đất trời yêu thương.

Có thể nói, đây là một bức tranh toàn cảnh về quê hương yêu dấu của nhà thơ. Với một giọng điệu khỏe khoắn, với những hình ảnh sinh động cùng với sự kết hợp hài hòa, độc đáo những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. Tế Hanh đã tạo nên một bức tranh quê hương rất mới mẻ và tươi tắn. Phải là một nhà thơ gắn bó tha thiết với cuộc đời, với đời sống cần lao của người dân nơi đây thì nhà thơ mới có được những vần thơ hay đến vậy.

Phân tích bài thơ quê hương – Bài tham khảo 4

Nhà thơ Thanh Thảo có đôi lời nhận xét về nhà thơ Tế Hanh rằng: “Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự mộc mạc, chân thành, vì sự trong trẻo, giản dị như một dòng sông”. Nếu để nói về vị trí của ông trong thơ Mới thì ta có thể dùng hai từ “bình lặng”, hồn thơ ông không bật lên mạnh mẽ như cái cuồng nhiệt, say mê của Xuân Diệu, cũng không đủ kỳ dị, điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không gây ấn tượng sâu sắc bởi sự “quê mùa” của Nguyễn Bính, và cũng chẳng có cái buồn thiên thu của Huy Cận.

Thế nhưng sau tất cả chưa bao giờ người ta quên đi Tế Hanh, một nhà thơ có chất giọng hồn nhiên, phong độ sáng tác đều đều, và mỗi tập thơ của ông đều được ghi dấu bằng một vài bài thơ đáng nhớ, đủ để ghi vào lòng độc giả những cảm xúc mới mẻ, tinh tế của một hồn thơ trẻ. Có thể nói quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của Tế Hanh mà bài thơ Quê hương chính là một khởi đầu đầy xuất sắc và hứa hẹn.

Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào thơ Mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Khi nhận định về Tế Hanh và Quê hương Hoài Thanh đã viết rằng: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương… Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ…”. Mà sở dĩ có được ánh nhìn sâu sắc như vậy cũng bởi ông có sẵn một tâm hồn tha thiết sâu nặng với cuộc đời với quê hương và đất nước.

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu khái quát về làng quê “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với giọng thơ rất đỗi nhẹ nhàng tình cảm tựa như một lời tự sự chân thành. Nhưng đó không chỉ là một lời giới thiệu, mà hơn thế nữa nó còn gợi ra dáng hình của quê hương, đó một làng chài “nước bao vây” tựa như một cù lao nổi lên trên sông dập dềnh sóng nước.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Nó cũng gợi ra những đặc điểm về vị trí địa lý, về khoảng cách từ làng ra tới biển cả bằng cụm từ “cách biển nửa ngày sông”, và cũng chỉ ra đó là một làng quê nghèo làm ăn sinh sống bằng nghề chài lưới vất vả. Tất cả đều được Tế Hanh dùng những từ ngữ giản dị, mộc mạc với lối ăn sóng nói gió đậm chất miền biển để diễn tả về một quê hương đầy tha thiết, với đôi mắt mặn nồng yêu thương.

Với một người con miền biển có lẽ rằng cảnh dong thuyền đi đánh cá của ngư dân đã in sâu vào trí óc, thế nên Tế Hanh đã ghi lại bằng những cảm xúc dạt dào, trong sáng với những hình ảnh đầy chất thơ. Đó là một buổi sáng đẹp, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, ánh nắng ban mai ráng hồng trên khắp cả làng chài, và dưới khung cảnh tuyệt đẹp ấy những người thanh niên khỏe khoắn tràn đầy sức sống, bắt đầu công việc của mình với khí thế sôi nổi, rộn ràng.

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

“Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Khung cảnh lao động dưới ánh mắt của nhà thơ diễn ra thật mạnh mẽ, tràn đầy khí thế, dưới sự hợp sức đầy quyết tâm của những chàng trai làng chài chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến.

Có thể nói rằng con thuyền trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển. Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá.

Nhưng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả khí thế sôi nổi lúc ra khơi, mà Tế Hanh còn rất tinh tế và khéo léo trong việc vận dụng thủ pháp so sánh giữa “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”. Có thể nói rằng đây là đột phá nghệ thuật trong phong cách thơ của tác giả, lấy cái hữu hình đem so sánh với cái trừu tượng vốn tưởng là điều không thể nhưng Tế Hanh đã làm được mà còn làm rất xuất sắc.

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Nhờ ơn trời! biển lặng cá đầy ghe

Ông đã vẽ ra dáng hình mảnh hồn của làng chài miền biển một cách rất thần tình, tinh tế. Cánh buồm trắng mang theo mảnh hồn, mảnh tình, thấm đẫm tình cảm của quê hương, luôn theo sát từng bước chân ngư dân trong công cuộc lao động. Ở đó dung hòa nhiều thứ tình cảm đó là nỗi mong đợi, hy vọng thiết tha của những người ở lại và cả nỗi nhớ da diết, một lòng hướng về quê hương của những người đang lao động ngoài khơi xa.

Hình ảnh so sánh độc đáo đã mang về cho vần thơ của Tế Hanh sự lãng mạn, bay bổng, ở đó tình quê hiện lên một cách nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và gắn bó vô cùng. Ở câu thơ tiếp “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”, ta nhận ra tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa thông qua hai từ rất có sức gợi “rướn” và “thâu”.

Dường như cánh buồm mang mảnh hồn làng ấy cũng có linh tính về công việc của người ngư dân thế nên nó mới cố sức “rướn” tấm thân trắng sao cho thật rộng để “thâu” góp được nhiều gió, đẩy thuyền ra khơi thật nhanh, thật xa. Như vậy trong đôi mắt của Tế Hanh cánh buồm giờ đây cũng trở thành một nhân lực lao động, có những đóng góp nhất định vào công việc đánh bắt của người ngư dân.

Từ đó ta nhìn ra được tư tưởng đoàn kết, hỗ trợ và gắn bó sâu sắc của người dân làng chài, gắn bó từ trong tâm hồn, tư tưởng, không chỉ là ở con người mà còn ở cả sự vật, tất cả đã kết hợp nhịp nhàng để làm ra những kết quả lớn. Có cảnh ra khơi sôi nổi, nhiệt huyết thì cảnh ngư dân trở về cũng náo nhiệt và tươi vui không kém.

Vẫn tiếp tục với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết yêu thương Tế Hanh, người đọc cảm nhận từ đoạn thơ cái cảm giác thư thái, thanh bình và niềm vui ấm no của ngư dân sau một đợt ra khơi đầy vất vả. Đồng thời Tế Hanh cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc đến biển cả quê hương, đã cho người dân được cuộc sống ấm no hạnh phúc, mẹ thiên nhiên nhân từ đã cho “biển lặng”, dốc công nuôi dưỡng nên nguồn cá dồi dào, ban cho ngư dân “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”, để họ được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả về một chuyến ra khơi về bội thu.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả.

Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng.

Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi. Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả. Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi.

Và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.

Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng.

Phân tích bài thơ quê hương – Bài tham khảo 5

Bài thơ Quê hương sáng tác năm 1938, khi tác giả mới tròn mười bảy tuổi, đang theo học trung học ở Huế, là nỗi nhớ, là tình yêu nồng nàn đối với quê hương. Mở đầu bài thơ, bằng lời kể mộc mạc, tự nhiên, Tế Hanh giới thiệu:

Quê hương nhà thờ là một cù lao nổi giữa bốn bề sông nước. Dân làng sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn chặt với biển cả mênh mông. Làng nghèo giống như bao làng biển khác nhưng khi,đi xa, nhà thơ thương nhớ đến quặn lòng. Nhớ nhất là khung cảnh:

Đoàn thuyền nối đuôi nhau rời bến lúc bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Bầu trời cao lồng lộng đồng điệu với lòng người phơi phới. Hình ảnh các chàng trai xứ biển vạm vỡ và con thuyền băng băng lướt sóng đã in đậm trong tâm tưởng nhà thơ:

Hình ảnh so sánh đẹp đẽ và một loạt tính từ, động từ chọn lọc: hăng, phăng, mạnh mẽ, vượt… đã diễn tả đầy ấn tượng khí thế của những con thuyền nối nhau ra khơi, toát lên sức sống khỏe khoắn và một vẻ đẹp hào hùng. Trong hai câu tiếp theo, tác giả miêu tả cánh buồm bằng sự so sánh độc đáo, bất ngờ và lãng mạn:

C ánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Hình ảnh cánh buồm giản dị, quen thuộc hằng ngày bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và thơ mộng. Nhà thơ cảm thấy đó chính là biểu tượng của hồn làng nên dồn hết tình yêu thương vào ngòi bút để vừa vẽ ra cái hình, vừa thể hiện cái hồn của cánh buồm. So sánh không đơn thuần là làm cho sự vật được miêu tả cụ thể hơn mà đem lại cho nó một vẻ đẹp bay bổng chứa đựng ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả chính xác cái hồn của làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng căng phồng ngọn gió biển khơi?

Đem so sánh cánh buồm là vật hữu hình với hồn làng một khái niệm vô hình thì quả là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Con thuyền ra khơi mang theo những nỗi lo toan cùng niềm tin yêu, hi vọng của bao người. Nhiệt tình và sức sống của con người truyền sang cả vật vô tri khiến cho con thuyền dường như cũng có tâm hồn riêng, sức sống riêng.

Nhịp thơ khỏe khoắn, tươi vui thể hiện khí thế sôi nổi và niềm khao khát hạnh phúc ấm no của người dân làng biển. Sáu câu thơ miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá vừa là bức tranh phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi. Nếu cảnh đoàn thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả bằng bút pháp lãng mạn bay bổng thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến được tả thực đến từng chi tiết:

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân làng vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về trong không khí ồn ào, tấp nập. Những chiếc ghe đầy ắp những con cá tươi ngon thân bạc trắng trông thật thích mắt. Dân làng chân thành tạ ơn trời đất đã sóng yên biển lặng để đoàn ngư phủ được an toàn trở về với làng xóm thân yêu.

Khi những người thân ra khơi đánh cá, người ở nhà đợi chờ trong phấp phỏng, lo âu. Nay những con thuyền cập bến bình yên với đầy khoang cá bạc, hỏi còn niềm vui nào lớn lao hơn thế bởi đó chính là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân làng.

Biển cả đẹp đẽ, giàu có và hào phóng nhưng cũng thật khó lường bởi lúc thì trời yên biển lặng, lúc thì bão tố dữ dội. Giữa đại dương mênh mông, làm sao tránh được hiểm nguy, bất trắc? Chỉ có những người một đời gắn bó, sống chết với biển mới thấu hiểu điều này. Cuộc sống của dân chài ngàn đời nay phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ vất vả, cực nhọc trăm bề để kiếm miếng cơm manh áo. Vì vậy, giây phút đón người thân sau chuyến đi biển an toàn trở về bao giờ cũng tràn ngập niềm vui.

Giữa khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh rắn rỏi, cường tráng của những chàng ngư phủ quanh năm vật lộn với sóng gió đại dương. Dấu ấn của biển cả đã in đậm trên thân hình và trong tâm hồn họ:

Những con thuyền về bến sau chuyến ra khơi được nhà thơ ví như con người nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả: Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Bao hiểm nguy giờ đã lùi xa, nhường chỗ cho sự thanh thản, bình yên. Nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cho con thuyền vô tri một đời sống và một tâm hồn tinh tế.

Nhà thơ đã phát hiện ra chất thơ trong đời sống vất vả, cực nhọc của dân quê, đó là điều đáng quý. Cũng vì vậy mà hình ảnh quê hương trong bài thơ tươi sáng, mang hơi thở nồng ấm của cuộc đời cần lao. Hình ảnh quê hương đẹp đẽ với những con người lao động cần cù đã khắc sâu trong kí ức, hỏi làm sao khi xa cách, nhà thơ không thương nhớ đến quặn lòng?

Nếu không có tấm lòng gắn bó chân thành, máu thịt với con người cùng cuộc sống lao động ở làng chài quê hương thì thi sĩ không thể sáng tác ra những câu thơ xuất thần như vậy. Mỗi lần nhớ về quê hương, cảnh đẹp của biển cả như hiển hiện rõ ràng trong tâm trí nhà thơ:

Ở bốn câu thơ kết, nhà thơ trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của mình. Nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi; Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi và nhớ cả cái mùi nồng mặn rất đặc trưng của gió biển cùng tất cả những gì thân thuộc của quê hương. Phải chăng nỗi nhớ da diết ấy chính là sợi dây kết chặt nhà thơ với quê hương suốt cả cuộc đời!

Bài thơ Quê hương mộc mạc, tự nhiên nhưng rất sâu sắc và thấm thía bởi nó được viết lên từ cảm xúc chân thành. Sức hấp dẫn của nó trước hết là ở những hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc và ngôn ngữ tự nhiên, trong sáng. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ví von, nhân hóa kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ giống như một bức tranh phong cảnh tuyệt vời được vẽ nên từ tình yêu tha thiết mà Tế Hanh dành trọn cho quê hương.

Có thể coi bài thơ này như một cung đàn dịu ngọt của những tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương xứ sở bởi đây là mảnh tâm hồn trong trẻo nhất, đằm thắm nhất của Tế Hanh dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Audio Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh

Video Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh

……………………………..

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giáo Án Ngữ Văn 8 Tiết 76: Quê Hương (Tế Hanh) trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!