Cập nhật nội dung chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 12 Chi Tiết: Tiếng Hát Con Tàu mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chế Lan Viên A. Mục tiêu bài học: – Cảm nhận được tình cảm hướng về nhân dân và đất nước, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng là về với ngọn nguồn của nghệ thuật, của cảm hứng sáng tạo thơ ca. – Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ: cảm xúc gắn bó với suy tưởng, triết lí, khai thác những tương quan đối lập; khả năng liên tưởng phong phú và đặc biệt là nghệ thuật xây dựng những hình ảnh đa dạng, đầy sáng tạo. B. Nội dung bài học: I. Tiểu dẫn: 1. Tác giả: – Chế Lan Viên ( 1920 – 1989 ) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23 – 10 – 1920, quê gốc ở xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Nhưng thuở nhỏ và nhiều năm thời thanh niên sống cùng gia đình ( từ năm 1927, gia đình ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định ) ở Bình Định nên đây cũng là quê hương thứ hai của nhà thơ. – Chế Lan Viên làm thơ từ lúc 12, 13 tuổi. – Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông đi dạy học ở trường tư , làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung. Tập thơ đầu tay – Điêu tàn – xuất bản lúc tác giả mới 17 tuổi ( năm 1937 – khi ông đang là học sinh trung học ) được dư luận đặc biệt chú ý, đã khẳng định Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của Phong trào Thơ mới. – Ông tham gia cách mạng tháng Tám ở Quy Nhơn, rồi trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo chí ở khu liên IV và chiến trường Bình Trị Thiên, Chế Lan Viên đã tìm được con đường cho thơ mình đến với nhân dân và đời sống cách mạng. – Sau năm 1954, ông về Hà Nội tiếp tục hoạt động văn học, nhiều năm tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu quốc hội các khóa IV, V, VI và VII. – Sau 1975, ông vào sống ở TP HCM, tiếp tục hoạt động văn học cho tới lúc qua đời ( 19 – 6 – 1989 ). – Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật ( đợt I ). 2. Sự nghiệp sáng tác: – Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều chặng đường với những bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng và những tìm tòi về đổi mới nghệ thuật của nhà thơ. – Trước cách mạng, với tập thơ Điêu tàn ( 1937 ), Chế Lan Viên đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị ( Hoài Thanh ), chinh phục người đọc bằng một tư duy thơ độc đáo, khác thường với chí tưởng tượng phong phú, mãnh liệt, những hình ảnh mới lạ, đã tạo ra một thế giới kinh dị, thần bí và sớm đi vào bế tắc. – Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã hồi sinh hồn thơ Chế Lan Viên, mở ra một chân trời mới cho thơ ông. Từ sau 1945 đến 1975, thơ Chế Lan Viên càng ngày càng bắt rễ sâu vào đời sống rộng lớn của nhân dân và đất nước. Trong những năm cao trào chống Mĩ cứu nước, thơ Chế Lan Viên nóng hổi tính thời sự, giàu chất sử thi, chất anh hùng ca và chất chính luận, có vẻ đẹp trí tuệ độc đáo. – Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên lại trở về với đời sống thế sự và những trăn trở, chiêm nghiệm về cái tôi trong mối quan hệ phong phú, phức tạp của đời sống. – Thơ Chế Lan Viên có phong cách rõ nét và độc đáo: có vẻ đẹp trí tuệ, luôn có ý thức khai thác triệt để những tương quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo của thế giới hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. – Những tác phẩm chính: + Các tập thơ: Điêu tàn ( 1937 ); ánh sáng và phù sa ( 1960 ); Hoa ngày thường, chim báo bão ( 1967 ); Những bài thơ đánh giặc ( 1972 ); Đối thoại mới ( 1973 ); Hoa trước lăng Người ( 1976 ); Hái theo mùa ( 1977 ); Hoa trên đá ( 1984 ); Di cảo thơ, tập I ( 1992 ), tập II ( 1993 ) và tập III ( 1996 ). 3. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác và những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: a. Xuất xứ: Bài thơ rút từ tập Ánh sáng và phù sa ( 1960 ), một tập thơ xuất sắc, kết tinh tư tưởng và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trên con đường thơ cách mạng. b. Hoàn cảnh sáng tác: + Vào những năm 1958 – 1960, có phong trào vận động đồng bào miền xuôi ( chủ yếu là thanh niên ) lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. Cũng từ giữa năm 1958, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều văn nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế công cuộc xây dựng đất nước ở nhiều vùng, trong đó lên Tây Bắc có Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải. Lúc ấy Chế Lan Viên chưa đến được Tây Bắc, ông đã gửi lòng mình vào bài thơ này. Bài thơ Lên miền Tây của Bùi Quốc Minh với những câu thơ đầy hào hứng: Lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy – Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường rất quen thuộc với thanh niên hồi bấy giờ. Nhưng Tiếng hát con tàu không đơn giản chỉ là bài thơ minh họa sự kiện kinh tế – chính trị trên. Phong trào vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi chỉ là một trong những nhân tố tạo nên cảm hứng sáng tác ở Chế Lan Viên, là cái nguyên cớ để nhà thơ thể hiện khát vọng về với nhân dân, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình của nhân dân trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, cũng là sự tìm về nơi ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo thơ ca. Sự kiện chính trị đã lùi xa, nhưng bài thơ thì vẫn còn lại như một chứng tích tâm hồn của nhà thơ, với những tình cảm và khát vọng vừa sôi nổi, vừa lắng đọng, những suy ngẫm và cảm nhận về đời sống kết tinh được sự trải nghiệm của tác giả qua nhiều năm tháng. + Lấy sự kiện chính trị – xã hội làm điểm xuất phát, khơi gợi cảm hứng sáng tác là một cách khai thác đề tài khá quen thuộc của Chế Lan Viên. Song, từ những điểm xuất phát đó, xu hướng chung của thơ Chế Lan Viên là vươn lên nhằm đạt tới sự khái quát sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật. – Hoàn cảnh và tâm trạng riêng của tác giả khi viết bài thơ Tiếng hát con tàu: sau kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên ốm nặng, phải đi chữa bệnh dài ở Trung Quốc. Trở về nước, ông vẫn còn rất yếu. Trong không khí sôi động của miền Bắc những năm bước vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới, Chế Lan Viên không thể đi đến các vùng đất xa xôi của Tổ quốc, ông đã thể hiện khát vọng lên đường qua bài thơ này. Nhưng xét sâu hơn, bài thơ ra đời chủ yếu vì nhu cầu giải bày tình cảm ân nghĩa của tác giả đối với nhân dân, đối với cuộc đời và cách mạng. c. Những hình ảnh và địa danh mang ý nghĩa biểu tượng: Trong bài thơ, con tàu và Tây Bắc là những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng: – Con tàu: Khi bài thơ ra đời thì chưa có đường tàu và con tàu nào lên Tây Bắc. Hình ảnh con tàu là biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khao khát lên đường, vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn, đến những miền xa xôi, đến với nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. – Tây Bắc: í nghĩa cụ thể: chỉ địa danh một vùng đất xa xôi của Tổ quốc – nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa tình của nhân dân, nơi đã khắc ghi những kỉ niệm không thể quên của một đời người trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi đi tới. Ngoài ý nghĩa cụ thể thỡ Tây Bắc còn là một biểu tượng của cuộc sống lớn của nhân dân và đất nước, là cội nguồn cảm hứng của nghệ thuật, cội nguồn cảm hứng của hồn thơ và những sáng tạo thơ ca. Vì vậy, lời giục giã ra đi, kêu gọi lên Tây Bắc cũng là lời kêu gọi hãy trở về với chính lòng mình, tìm đến tâm hồn mình với những tình cảm trong sáng, nghĩa tình sâu nặng gắn bó nhân dân và đất nước. 4. í nghĩa nhan đề bài thơ: – Bài thơ ra đời khi chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh con tàu thực chất là hình ảnh biểu tượng, thể hiện khát vọng lên đường và niềm mong ước của nhà thơ được đến với mọi miền đất nước. – Tiếng hát con tàu, như vậy là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ đầy xỳc động, khỏt khao hướng đến hiện thực của đất nước, một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lí tưởng vào cuộc đời. Tâm hồn nhà thơ đã hóa thân thành con tàu, hăm hở làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Đến với đất nước, nhân dân cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, trong đó có thơ ca. – Tiếng hỏt con tàu là tiếng hỏt của niềm vui được trở về với nhõn dõn, được hũa nhập vào cuộc sống mới và sức mạnh của cộng đồng, để tỡm lại chớnh mỡnh, vươn tới những chõn trời mới mẻ của đời sống và thi ca. II. Bố cục tác phẩm: Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn: – Đoạn 1 ( hai khổ thơ đầu ): thể hiện sự trăn trở của nhà thơ trước hiện thực đất nước đang cần sự cống hiến của những bàn tay khối úc, cần khai phỏ những đề tài mới mẻ trong văn học và lời giục giã, mời gọi lên đường. – Đoạn 2 ( chín khổ thơ tiếp theo ): niềm hạnh phúc và khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng đầy tình nghĩa trong những năm kháng chiến. – Đoạn 3 ( bốn khổ thơ cuối ): khỳc hỏt lờn đường sôi nổi, tin tưởng và say mê đó giục gió nhà thơ đến với cuộc sống mới, tỡm thấy nguồn đề tài mới (4 khổ thơ cuối). III. Đọc hiểu văn bản: 1. Khổ đề từ: – Bốn câu thơ đề từ của bài ( mà tác giả có ý định làm đề từ chung cho một chùm thơ ) có tính khái quát rộng hơn, vượt lên các sự việc cụ thể. Cấu trúc vần thơ dưới hình thức hỏi – đáp. Không chỉ bằng câu hỏi mà đáp cũng bằng câu hỏi. Giọng điệu ngân vang, say mê, hào hứng: Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ? – Bao trùm lên khổ đề từ là niềm tự hào về một tình yêu lớn của nhà thơ. Hỏi – đáp để tự khẳng định sự thức nhận của tâm hồn mình. + Câu một nói lên tình cảm cao đẹp, rộng lớn: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà nhà thơ còn hướng tâm hồn mình đến với mọi miền bao la của đất nước bao la với tất cả tình yêu thương tha thiết. + Câu hai và ba chỉ rõ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp đó. Điều kiện chủ quan là khi lòng ta đã hóa những con tàu, tự thân ta đã sống với một khát vọng đẹp muốn đi tới mọi miền của Tổ quốc thân yêu để hiến dâng và phục vụ. Điều kiện khách quan là hiện thực xã hội, là không khí của thời đại: Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát. Đó là một thời kì rất đẹp, rất sôi động trên miền Bắc nước ta. Nhân dân phấn khởi, hào hứng xây dựng đất nước và cuộc sống mới. + Câu bốn là hệ quả tất yếu mà điều kiện chủ quan và khách quan đưa tới: Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ? Câu hỏi tu từ vang lên kiêu hãnh biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã gắn bó, đã yêu mến nồng hậu Tây Bắc. à Có thể nói, với Chế Lan Viên, hành trình đến với nhân dân, đến với cuộc đời rộng lớn cũng là sự trở về với chính tâm hồn mình, làm giàu có thêm tâm hồn thơ của mình. Ông đã tìm ra một cách diễn đạt thông minh, sắc sảo nhưng cũng khá cầu kì để thể hiện sự hòa nhập tư tưởng, tình cảm tâm hồn của người nghệ sĩ với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất nước. Tình cảm, tâm hồn của nhà thơ ( Khi lòng ta đã hóa những con tàu ) một khi đã hòa nhập với không khí nào nức, tưng bừng, với niềm vui chung của nhân dân trong cuộc dựng xây đất nước ( Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát ) thì cũng là lúc soi vào lòng mình, nh … vá rách Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con. Nhớ đến người anh là tác giả nhớ đến màu áo nâu, chiếc áo giản dị gắn với những chiến công và kết tinh lại là hình ảnh rất cảm động của sự hi sinh, san sẻ: Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con. + Em con, thằng em liên lạc: Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn ! chưa mất một phong thư. Khi nhớ tới người em là tác giả nhớ tới công việc giao liên, tinh thần vượt khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ( Mười năm tròn ! chưa mất một phong thư ). + Bà mế già: Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài, Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Mế là hình ảnh kết tinh lại một cách cảm động từ những kỉ niệm tình cảm yêu thương, hành động hết lòng chăm sóc những đứa con đi kháng chiến. Hình ảnh mế cũng là hình ảnh của những người mẹ Việt Nam. à Với những điệp ngữ Con nhớ anh con, Con nhớ em con, Con nhớ mế,… bài thơ chồng chất, ăm ắp những kỉ niệm được gợi ra từ niềm hoài niệm về nhân dân của nhà thơ. Cách xưng hô của chủ thể trữ tình bộc lộ một tình cảm thân tình, ruột thịt với những con người đã từng gắn bó mật thiết với mình trong những năm kháng chiến. Bằng những chi tiết cụ thể, gợi cảm, tác giả khắc họa hình ảnh những con người này với những hi sinh thầm lặng, lớn lao, với tình thương và sự che chở, đùm bọc trọn vẹn và rộng lớn: suốt một đời, đêm cuối cùng, mười năm tròn, một mùa dài, trọn đời,… ( đây là những từ ngữ bao hàm ý nghĩa trọng vẹn ). Đồng thời, qua đây chúng ta hiểu được sự rung động vừa sâu sắc, thân thiết, vừa say mê, mãnh liệt của một hồn thơ trong những giây phút bừng sáng của sự giác ngộ một chân lí đời sống và cũng là chân lí của nghệ thuật: phải trở về thủy chung gắn bó với nhân dân. Tổ quốc và nhân dân đã hồi sinh cho một hồn thơ đã từng một thời gian giam mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép. Những câu thơ nói về tình nghĩa nhân dân biểu lộ một lòng biết ơn sâu nặng, sự gắn bó chân thành và những xúc động thấm thía của một tấm lòng, một trái tim; những câu thơ được viết bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính nhà thơ qua những năm kháng chiến. – Từ những kỉ niệm ân tình, những hoài niệm về nhân dân, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ những trải nghiệm của chính mình: Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương ? + Điệp từ nhớ như để khắc sâu, nhấn mạnh về một miền đất cụ thể nhưng vẫn có nét riêng đó là sương giăng, mây phủ – những từ này gợi liên tưởng cho chúng ta đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc vẫn còn đọng lại vấn vương, bồi hồi trong kí ức của nhà thơ. + Từ đây, tác giả nâng lên thành một triết lí của cuộc sống: Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn ! Đất: khi ta ở, khi ta đến thì đất tồn tại như một khái niệm địa lí thông thường nhưng khi rời xa, thì đất đã hóa tâm hồn – khi chúng ta rời xa mảnh đất đã từng gắn bó với bao nghĩa tình đó thì tất cả sẽ được bao bọc bởi những kỉ niệm khắc sâu trong tâm khảm, kỉ niệm đó sẽ lắng sâu vào kí ức thành máu thịt thiêng liêng. Tác giả đã tạo ra sự phi lí bề ngoài ( đất hóa tâm hồn ) là hình thức chứa đựng chân lí bên trong: tình cảm gắn bó giữa con người với những miền đất sẽ theo thời gian mà âm thầm bồi đắp nên tâm hồn cho con người. Đó là điều kì diệu mà tình cảm con người đã làm được để biến kỉ niệm với những miền đất mà mình đã từng qua thành tâm hồn của chính mình. Đây là một triết lí sâu sắc, thâu tóm được một quy luật phổ biến trong đời sống nhân sinh. Từ cảm xúc suy tư đúc kết thành những triết lí chính là một nét độc đáo của nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. – Tác giả đưa ra suy ngẫm về tình yêu và về miền đất lạ: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Nói đến tình yêu trong nỗi nhớ, câu thơ Chế Lan Viên lấp lánh, rực rỡ những sắc màu, bồi hồi, xôn xao những xúc động. Chế Lan Viên đã diễn tả thật hóm hỉnh, độc đáo và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu. Hai hình ảnh so sánh thật độc đáo: rét là một thuộc tính của mùa đông, là quy luật của tự nhiên. Nói đến mùa đông là phải nói đến rét cũng như trong tình yêu, trong nỗi nhớ của con người cũng vậy. à Từ đây, tác giả nâng lên thành tình cảm sâu sắc và thiêng liêng: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương Một câu thơ ngắn gọn nhưng có sự cô đúc, khái quát sâu sắc. Câu thơ không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa của anh và em mà còn là sự kết tinh của những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước: ở đâu thắm thiết nghĩa tình thì ở đó là quê hương. Mạch thơ tưởng như đột ngột rẽ sang một bước khác, nhưng kì thực là khơi sâu thêm cái mạch suy nghĩ, triết luận của khổ thơ trước. Nói về tình yêu nhưng lại hướng tới sự cắt nghĩa, lí giải, làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ. Chế Lan Viên đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến thành những miền đất xa lạ trở thành thân thiết như quê hương ta, hóa thành máu thịt tâm hồn ta. Những câu thơ cô đúc như một châm ngôn chứa đựng những phát hiện sâu sắc về quy luật của tình cảm này không xuất phát, không lấy điểm tựa làm trí tuệ sắc sảo mà chủ yếu được Chế Lan Viên kiến tạo trên cái nền của những xúc động của chính tâm hồn mình, lắng nghe tiếng lòng của chính mình mà chiêm nghiệm ra một chân lí phổ quát của đời sống tình cảm con người. Chính vì triết lí được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên triết lí mà vẫn không khô khan, vẫn tự nhiên, dung dị. Đó là những câu thơ vào loại hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên. 4. Khúc hát lên đường đầy lôi cuốn, sôi nổi và say mê: Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường đầy lôi cuốn, sôi nổi say mê, nhưng cũng tiếp tục phát triển mạch suy tưởng của bài thơ lên một bước nữa: – Những câu hỏi tu từ thể hiện sự giục giã, nó giống như tiếng gọi của đât nước, của nhân dân, của đời sống đã thành sự thôi thúc bên trong, thành lời giục giã của chính lòng mình nên càng không thể chần chừ: Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi ? Tình em đang mong tình mẹ đang chờ thành nỗi khao khát bồn chồn không thể cưỡng được: Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng. – Nỗi khao khát mãnh liệt ấy càng thôi thúc tâm hồn thơ vì đó cũng là về với những ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo. Những năm tháng gian khổ, những hi sinh lớn lao, những đâu thương chiến tranh, nay đã kết tinh thành Mùa nhân dân giăng lúc chín rì rào trên Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao, thành vàng của tâm hồn, thành trái đầu xuân, đang mời gọi những tâm hồn thơ, đang vẫy gọi cả những cơn mơ, những mộng tưởng. – Trong đoạn này, cùng với âm hưởng sôi nổi, lôi cuốn của các câu thơ là những hình ảnh phong phú, biến hóa sáng tạo, chủ yếu là những hình ảnh biểu tượng và ẩn dụ: đó là hình ảnh con tàu trên đoạn đầu được trở lại thành hình ảnh trung tâm, cùng với những mùa nhân dân giăng lúa chín, vàng ta đau trong lửa, vầng trăng, Mặt hồng em tròn suối lớn mùa xuân,… – Tạo ra âm hưởng lôi cuốn, trùng điệp của đoạn thơ kết thúc này có vai trò của một từ ngữ của câu cuối khổ thơ trên xuống câu đầu của khổ thơ dưới, làm cho các khổ thơ liền mạch, dồn dập, trùng điệp: Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng. … Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao Nhựa nóng mười năm nhân dân đổ máu. 5. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: – Nhà thơ đã sáng tạo ra một hệ thống hình ảnh đa dạng, phong phú: + Có những hình ảnh thị giác do quan sát được trong đời sống thực: bản sương giăng, đèo mây phủ, lửa hồng soi tóc bạc, chim rừng lông trở biếc, Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,… + Có những hình ảnh được miêu tả từ cụ thể đến chi tiết: Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách,… + Có những hình ảnh thực nhưng lại giàu sức gợi: Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc,… + Nhưng phong phú hơn là loại hình ảnh được xây dựng thành những hình ảnh – biểu tượng, hình ảnh ẩn dụ – tượng trưng: con tàu, vầng trăng, trái đầu xuân, vàng ta đau trong lửa, Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân,… – Chế Lan Viên thường có thói quen xây dựng, thiết kế những hình ảnh độc đáo, tân kì, mới lạ, hoặc là xâu chuỗi, hoặc là tầng tầng lớp lớp liên kết với nhau bằng những liên tưởng bất ngờ, có chiều sâu trí tuệ. – Tác giả sử dụng nhiều biện pháp xây dựng hình ảnh. So sánh được dùng phổ biến nhưng cũng rất đa dạng ( khổ 5 và khổ 10 ), cùng với ẩn dụ được dùng rộng rãi. Sức tưởng tượng, liên tưởng rất mạnh mẽ và nhiều khi bất ngờ tạo ra những so sánh mới lạ, những hình ảnh gợi tưởng tượng phong phú của người đọc: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng. – Có nhiều biện pháp tu từ, đặc biệt là cách chuyển nghĩa được dùng rộng rãi cùng với hình ảnh phong phú, làm cho bài thơ có vẻ đẹp tinh tế, có lúc rực rỡ và một chút cầu kì ( có người đã nhận xét thơ của Chế Lan Viên như người phụ nữ ưa trang sức và biết cách trang điểm ). – Thơ Chế Lan Viên không thể nào trần trụi và mộc mạc được. Ông là nhà thơ dùng văn chương tới mức tối đa. Thói quen này gắn liền với quan niệm về văn chương của ông: Có những cách cày bừa tăng năng suất cho cây trồng. Có những cách dùng chữ, viết văn tăng năng suất cho ý. Chính vì lẽ đó, Chế Lan Viên luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới hình thức thơ. Và khi nào những tìm tòi về mặt hình thức ấy hòa hợp được với tư tưởng sâu sắc, với cảm xúc phong phú, chân thành thì Chế Lan Viên có được những bài thơ có giá trị. IV. Ghi nhớ: – Nội dung: Bài thơ là lời giục giã, là khúc hát lên đường say mê, náo nức đến với những miền đất xa xôi đang cần xây dựng của đất nước, đến với cuộc đời rộng lớn. Đồng thời, bài thơ đã khơi dậy những kỉ niệm sâu sắc, thắm thiết nghĩa tình khi gặp lại nhân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp gian lao và thể hiển khát vọng của một hồn thơ muốn vượt ra khỏi những giới hạn nhỏ hẹp riêng tư để đến với chân trời rộng lớn, về với nhân dân và đất nước. Về với nhân dân, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong những năm kháng chiến gian khổ cũng là con đường tìm về ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo thi ca. – Nghệ thuật: Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi nghệ thuật sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bởi cách nói sáng tạo độc đáo của tác giả. Nhà thơ đã xây dựng nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng như con tàu, Tây Bắc, vầng trăng,… Những hình ảnh này liên kết với nhau rất phong phú và biến hóa. Các thủ pháp xây dựng hình ảnh, lối so sánh, biện pháp trùng điệp, giọng điệu thiết tha, chân thành, chứng tỏ chất trí tuệ sắc sảo của nhà thơ. V. Luyện tập: Trong Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên đã nói tới mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa thơ ca với hiện thực cuộc sống. Một mặt, ông thấy được vai trò quyết định của đời sống: Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia. Mặt khác, ông vẫn nhấn mạnh, đề cao vai trò của người nghệ sĩ với tư cách là chủ thể sáng tạo. Ông đòi hỏi phải có sự hòa hợp giữa tình cảm, tâm hồn nhà thơ với cuộc sống của nhân dân, đất nước. Bốn câu thơ đề từ của bài thơ thể hiện rất rõ điều này. ———-Hết———-
Soạn Bài Ngữ Văn Lớp 12: Tiếng Hát Con Tàu
Soạn bài Ngữ văn lớp 12: Tiếng hát con tàu của tác giả Chế Lan Viên.
Chế Lan Viên (1920 – 1989) là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam, có nhiều thành tựu về mặt sáng tác và những đóng góp về mặt lí luận, phê bình thơ ca cũng như lí luận phê bình về văn nghệ nói chung. Thơ Chế Lan Viên có phong cách độc đáo: có vẻ đẹp trí tuệ, luôn có ý thức khai thác triệt để những tương quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới, hình ảnh đa dạng, phong phú, đầy sáng tạo. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. (Xem tiểu dẫn về tác giả trong SGK).
* Tác phẩm: Tiếng hát con tàu (gợi ý tìm hiểu bài thơ) Bài thơ Tiếng hát con tàu rút từ tập Ánh sáng và phù sa (1960), một tập thơ xuất sắc, kết tinh tư tưởng và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trên con đường thơ cách mạng.
Cách mạng tháng Tám 1945 đã hồi sinh hồn thơ Chế Lan Viên, mở ra một chân trời mới cho thơ ông. Từ một nhà thơ lãng mạn ông đã trở thành một nhà thơ cách mạng, gắn bó với đời sống rộng lớn của nhân dân và đất nước. Hành trình đến với Cuộc sống lớn của Nhân dân và Đất nước được nhà thơ nói lên thật thiết tha và sâu nặng trong bài thơ này như một sự bừng sáng của lí tướng thơ ông. Có thể xem Tiếng hát con tàu là sự hình tượng hóa cho hành trình thơ đó của Chế Lan Viên: con tàu hối hả, phấn chấn lên đường, vang lên tiếng hát vui tươi, rộn rã, giục giã nhà thơ lên đường đến với nhân dân, với lí tưởng để tìm cảm hứng thơ cho mình. Chưa đi mà đã cuống quýt:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây BắcCon gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổTây Bắc ơi, ngươi là mẹ của hồn thơ,Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uổng một vầng trăng?Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân. Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa, Nay trở về, ta lấy lại vàng ta. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa. Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?
Và khi đã đến với nhân dân thì đó là một sự hồi sinh thực sự, một hạnh phúc lớn của nhà thơ:
Bởi nhân dân không chỉ là những kỉ niệm cảm động mà còn là những bài học sâu sắc, quý giá vô ngần đôi với nhà thơ: người anh du kích “cởi lại cho con” chiếc áo nâu trong đêm công đồn cuối cùng, thằng em liên lạc “mười năm tròn chưa mất một phong thư”, và nhất là hình ảnh bà mẹ:
Năm con đau, mế thức một mùa dài,Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Chính vì thế, mà:
Hai câu thơ giàu ý vị triết lí, mang đậm chất thơ trí tuệ của Chế Lan Viên, nhưng ngẫm cho cùng đó chính là kết quả của quá trình nhà thơ đến với Cuộc sống lớn của Nhân dân và Đất nước, từ đó mà hiểu sâu thêm Đất nước và Nhân dân để càng thêm yêu quý Đất nước và Nhân dân mình. Và có phải đó cũng chính là điều quan trọng nhất đã đem lại cảm hứng mới mẻ cho hồn thơ Chế Lan Viên như ông đã khẳng định một cách tự hào:
“Vàng” ở đây có nghĩa là tâm hồn thơ mà nhân dân, cuộc kháng chiến mười năm đã cho ông để đến lượt nhà thơ ông lại đem đến “chất mặn của đời” cho thơ và cho đời.
Đến đây, cảm hứng bài thơ dâng lên cao trào để khép lại tác phẩm. Cả con tàu – biểu tượng cùng với thi nhân như đều say chếnh choáng, ngất ngây khi được tắm mình trong Cuộc Sống Lớn Của Nhản Dân Và Đất Nước tràn đầy sắc xuân:
Giáo Án Ngữ Văn 12 Chi Tiết: Hai Đứa Trẻ
Thạch Lam A. Mục tiêu bài học: – Thấy được tình cảnh xót thương của Thạch Lam đối với những người phải sống nghèo đói, quẩn quanh, không tương lai, không ánh sáng ở phố huyện; và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn của những con người tội nghiệp này. – Thấy được một vài nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn trữ tình Hai đứa trẻ. B. Nội dung bài học: I. Tiểu dẫn: 1. Tác giả: – Thạch Lam ( 1910 – 1942 ) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Bút danh khác là Việt Sinh. – Ông sinh và mất tại Hà Nội, quê nội ở Quảng Nam nhưng tuổi thơ và tuổi trẻ ông sống với gia đình ở quê ngoại: phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Chính cái phố huyện nghèo khổ và tăm tối này đã trở thành không gian nghệ thuật, trở đi trở lại trong nhièu sáng tác của ông. – Ông là người thông minh, tính tình điềm đạm, trầm tĩnh và rất tinh tế. Ông là em ruột của Nhất Linh ( Nguyễn Tường Tam ) và Hoàng Đạo ( Nguyễn Tường Long ). Cả ba anh em đều là những thành viên trụ cột của Tự lực văn đoàn. – Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất, ông làm báo và viết văn cùng các anh và trở thành một trong những cây bút chủ chốt của hai tờ báo Phong hoá, Ngày nay – cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn. – Ông mất vì bệnh lao ngày 28 – 6 – 1942. 2. Sự nghiệp sáng tác: – Thạch Lam là một trong số ít nhà văn đương thời khá tự giác về quan điểm nghệ thuật và điều đáng quý hơn là Thạch Lam có quan điểm nghệ thuật tiến bộ lành mạnh; trong đó, ông đặc biệt khẳng định chức năng cao quý của văn chương đối với cuộc sống: Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. – Thạch Lam thực sự sáng tác chỉ trong khoảng 6 năm và mất khi mới 32 tuổi nhưng ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên đường hiện đại hoá. – Thạch Lam không thành công trong tiểu thuyết song là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa: + Ông là một trong số ít người mở đường cho lối viết truyện không có cốt truyện ( hay còn gọi là phi cốt truyện ) hoặc không có cốt truyện ( Các sự kiện chủ yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật. Chất liệu tạo truyện thường là một sự kiện nội tâm, nhân vật thường được xây dựng chủ yếu bằng những chi tiết nội tâm; còn trần thuật thì có chức năng gợi cảm với thành phần cơ bản là lời văn mô tả hay lời tự thuật ), đặc biệt: • Có những truyện nghiêng về cuộc sống vất vả, cơ cực, bế tắc của nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo: Nhà mẹ Lê, Đói, Người bạn trẻ, Người học trò, tối ba mươi, • Nhiều truyện khác lại tập trung khai thác những khía cạnh bình thường mà nên thơ trong cuộc sống: Gió lạnh đầu mùa, Tiếng chim kêu, Đứa em đầu lòng, + Truyện Thạch Lam giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ. – Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Nhà thơ đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. Hai yếu tố hiện thực và thi vị, trữ tình luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong phong cách nghệ thuật của ông. – Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. – Những tác phẩm chính: + Truyện Ngắn: Gió đầu mùa ( 1937 ), Nắng trong vườn ( 1938 ), Sợi tóc ( 1942 ). + Truyện dài: Ngày mới ( 1939 ). + Tiểu luận: Theo dòng (1941). + Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường ( 1943 ). + Phóng sự: Hà Nội ban đêm ( Phong hoá, 1936 ), Một tháng ở nhà thương ( Phong hóa, 1937). 3. Truyện ngắn Hai đứa trẻ: a. Giới thiệu tác phẩm: – Đây là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm rút từ tập Nắng trong vườn ( 1938 ). – Hai đứa trẻ là một truyện không có chuyện, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết cứ ngỡ như vụn vặt, vô nghĩa, nhưng kì thực đã được chọn lọc và sắp xếp một cách chắt chẽ để diễn tả tâm trạng của nhân vật. Qua đó, tác giả gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng, nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý. Đây cũng là một tác giả có sự đan xen giữa những yếu tố lãng mạn trữ tình và những yếu tố hiện thực. b. Chủ đề tác phẩm: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời ông cũng thể hiện sự trân trọng đối với ước mong khiêm nhường mà tha thiết của họ mặc dù vẫn còn mơ hồ. c. Nội dung tác phẩm: Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng êm mát và sâu kín của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ quẩn quanh trong xã hội cũ, vừa bộc lộ thái độ đồng cảm, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam. d. Cỏch dẫn dắt truyện: Truyện phỏt triển trong khụng gian tĩnh ( phố huyện ) nhưng trong một thời gian động ( hoàng hụn ề đờm ề đờm khuya ). Vỡ thế, cảnh mỗi lỳc một tối hơn, cuộc sống của những con người ở đõy mỗi lỳc một hắt hiu, tàn lụi hơn. Sự tương phản giữa tối và sỏng, tĩnh và động, giữa nếp sinh hoạt đơn điệu, nhàm chỏn kộo dài với khoảnh khắc huyờn nỏo, tưng bừng khi đoàn tàu chạy qua, II. Đọc hiểu văn bản: 1. Khung cảnh thiên nhiên và bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: a. Khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn: – Thời gian: Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. à Đây là khoảnh khắc của ngày tàn khi hoàng hôn buông xuống. Nhịp điệu câu văn nhẹ nhàng, êm dịu, chậm rãi và tương ứng với nhịp điệu tâm trạng của con người. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách nhưng lại giàu hình ảnh và nhạc điệu lại vừa uyển chuyển tinh tế ( Vũ Ngọc Phan ). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam. – Âm thanh: Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. à Âm thanh này gợi lên cảm giác buồn về một không gian tĩnh mịch và vắng vẻ. – Không gian: Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vầng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loại một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu,… * Tóm lại, bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tâm hồn nhạy cảm tinh tế, Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm. Đồng thời, Thạch Lam đã ít nhiều gợi được ở người đọc những tình cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. b. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: Cảnh chợ tàn ở phố huyện: một bãi chợ trống trải, vắng vẻ, đã vãn từ lâu: Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Tất cả đã gợi lên cảm giác trống vắng, tiêu điều, xơ xác. Điều này gợi lên cảnh tượng của một cuộc sống đói rách, nghèo khổ, bế tắc, cơ cực và lầm than và hơn tất cả, nó gợi cho chúng ta cảm giác buồn thấm thía, đó là cái buồn của một buổi chiều quê. à Tóm lại, bằng những câu văn có nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, Thạch Lam đã khắc họa lại một không gian với ngày tàn, chợ tàn để rồi hòa nhịp với cảnh đó là những dáng người, những kiếp người tàn. 2. Những kiếp người tàn: Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn: – Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng. – Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt. Họ khụng núi mà góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu, bần bật trong yên lặng ; Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. – Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, cụ đi lần vào trong bóng tối. – Thấp thoỏng xa xa là mấy đứa trẻ con nhà nghốo ở ven chợ, cỳi lom khom trờn mặt đất đi lại tỡm tũi. Chỳng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cỏi gỡ cú thể dựng được của cỏc người bỏn hàng để lại. – Chị em Liên phải thức để trông một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc. Hàng bán chẳng ăn thua gì, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo nhưng không có tiền để cho chúng nó. Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ cái ý nghĩ phở bác Siêu là một thứ quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được,… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có một gian hàng bé thuê của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình,… à Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn,… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua những chi tiết và lời văn dường như rất khách quan. – Hình ảnh ngọn đèn con ở hàng nước của Tí: + Chị em Liên lại chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí. + Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí: Giờ chỉ còn ngọn đèn của chị Tí và cái bếp lửa của bác Siêu, chiếu sáng một vùng đất cát, trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ; thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa.. Ngoài ngọn đèn này ra, thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê ( Thế Lữ ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới bảy lần. + Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp nghèo khổ, lam lũ, sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội cũ. à … ậm buồn của ông. Phải chăng hai chị em chờ tàu để bán được hàng ? Không, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. Hơn nữa, Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt,… nhưng cô vẫn chưa chịu ngủ. Còn An đã nằm xuống,… mi mắt đã sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị nhớ đánh thức mình dậy, khi tàu đi qua. Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya; vì với hai đứa trẻ, con tàu chỉ là con tàu. Nó là cả một thế giới khác – Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. 3. Tâm trạng của hai đứa trẻ: Tâm trạng của hai đứa trẻ được khắc họa rõ nét qua chuyến tàu đêm. Vì vậy, chuyến tàu đêm được Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An. – Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi cô nghe thấy tiếng còi xe lửa kéo dài ra theo gió. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bong sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào. Thế rồi, tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi vào đêm tối để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng , xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre,… – í nghĩa hình ảnh đoàn tàu: Con tàu như mang đến một thế giới khác + Đối với phố huyện: • Ánh sáng: hình ảnh con tàu như một con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm của phố huyện. Đây là một ánh sáng xa lạ với chốn thị thành: nó đủ sức xóa đi dù chỉ trong giây lát ánh sáng mờ ảo của phố huyện. • Âm thanh: mãnh liệt bởi tiếng bởi tiếng xe dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Âm thanh dường sư đủ sức át đi cái bản hòa tấu đều đều, tẻ nhạt, đơn điệu của phố huyện. Vì vậy tác động mạnh mẽ đến người dân phố huyện. à Phố huyện rầm rộ lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Và đáng nói hơn: những người dân phố huyện chỉ chính thức chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi qua. Phố huyện lại trở về phố huyện: hình ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tí lại chập chờn trong tâm trạng thức ngủ của Liên trước khi cô ngập hẳn vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như ở đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối. Vì vậy, mong đoàn tàu trở lại như một nhu cầu của người dân phố huyện. + Đối với chị em Liên: • Nhìn thấy những gì khác với cuộc sống đời thường mà chị em Liên đang sống và nó đã trở thành sự say mê, niềm khao khát của hai chị em Liên. • Hình ảnh đoàn tàu đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện. Riêng đối với chị em Liên, hình ảnh đoàn tàu đánh thức những kỉ niệm của ngày xưa sung sướng, tại đất Hà Nội khi thầy chưa mất việc. Điều này thể hiện ước mong, khát khao của chị em Liên trước cuộc sống tẻ nhạt, bằng phẳng nơi phố huyện. Phải chăng từ hình ảnh chuyến tàu chợt đến chợt đi, Liên như ý thức rõ hơn, sâu sắc hơn cuộc sống tối tăm nghèo nàn của cuộc đời mình và những người xung quanh. – Ánh sỏng, niềm vui, sự giàu sang, những hoạt động nỏo nhiệt, tất cả chỉ vụt qua như một tia chớp: + Tia chớp ấy lặp lại từng ngày, đỳng vào giờ ấy, cũng với chuyến tàu tương tự như thế, đủ để đem lại cho những con người tội nghiệp ấy một chỳt dư vị, dư õm khỏc lạ. Dư vị, dư õm đú đó đưa người đọc vào một tõm trạng buồn vui lẫn lộn. + Sau khi con tàu đi qua, dự phố huyện đó chỡm vào yờn lặng, dự chị em Liờn cũng đó ngập vào giấc ngủ yờn tĩnh, mà dường như ta vẫn nghe tiếng cũi xe lửa ở đõu vẳng lại, trong đờm khuya kộo dài ra theo ngọn giú xa xụi. Âm thanh mơ hồ đú như cũn õm vang trong lũng mọi người – õm vang của đợi chờ và hi vọng. Đối tượng của hi vọng ấy chẳng lớn lao, ghờ gớm gỡ, thậm chớ nú chập chờn và rất phự du, nhưng ớt nhất nếu khụng cú nú, cuộc sống của những con người nhỏ bộ kia sẽ càng thờm vụ nghĩa. – Tình cảm của nhà văn: + Qua việc miêu tả tâm trạng của Liên, Thạch Lam thể hiện niềm trân trọng, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé, sống trong nghèo nàn tối tăm, buồn chán nơi phố huyện ( nói rộng ra sống ở đất nước còn chìm đắm trong đói nghèo, nô lệ đương thời ). Điều này, đương thời Thế Lữ cũng đã nhận xét: Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn ra trong lời văn chương phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Nếu Thạch Lam theo một chủ kiến nào trong công việc viết văn của anh, thì chủ ý đấy diễn ra và gợi lên sự xót thương. + Qua tâm trạng của Liên, phải chăng Thạch Lam dường như còn muốn lay tỉnh những con người đang buồn chán, đang sống quẩn quanh, lam lũ cố vươn tới ánh sáng ? Điều này chỉ có được ở những cây bút xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ trước, khi họ ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể. Ở đây dường như Thạch Lam đã bắt gặp Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân,… ( ở dòng Văn học Lãng mạn ), Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài,… ( ở dòng văn học hiện thực ) trong việc không chấp nhận sống trong cái ao đời bằng phẳng, mòn mỏi và tù túng, khao khát hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống của con người. Như vậy, thể hiện một cách nhẹ nhàng, khát vọng hướng tới cuộc sống sáng tươi của những con người nhỏ bé, bình thường, Hai đứa trẻ có một giá trị nhân bản đáng quý. – Ngoài ra, tác phẩm phần nào còn là một bài ca quê hương, đất nước: + Bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tâm hồn nhạy cảm tinh tế. Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm: Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào ; trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát ;… + Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với thôn dã. Bởi thế, chỉ mới gặp mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc, chị em Liên đã tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. + Vốn sống hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên nên hai đứa trẻ luôn chú ý phát hiện tinh tế những biến thái của nó: An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn những vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Tâm hồn chúng dường như có sự giao cảm, giao hoà với cây cỏ quê hương: Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vầng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loại một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu,… à Qua cảm hứng thiên nhiên, Thạch Lam đã ít nhiều gợi được ở người đọc những tình cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. 4. Hỡnh ảnh của búng tối: – Cảnh và người cứ chỡm dần trong búng tối. Những khoảng tối với ma lực gợi cảm của nú, thường trở đi trở lại trong văn Thạch Lam ( Cụ hàng xộn, Người đầm, ), nhưng trong truyện ngắn này nú đặc biệt gõy ấn tượng: + Búng tối tràn lan: Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sụng, con đường qua chợ về nhà, cỏc ngừ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. + Búng tối đậm đặc: Trống cầm canh ở huyện đỏnh tung lờn một tiếng ngắn, khụ khan, khụng vang động ra xa, rồi chỡm ngay vào búng tối. – Trong thế giới đầy búng tối ấy, ỏnh sỏng rất hiếm hoi và đơn độc: + Ánh đốn của bỏc phở Siờu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đờm tối. + Ánh đốn trong cửa hàng của Liờn, An thỡ thưa thớt từng hạt ỏnh sỏng lọt qua phờn nứa. + Cỏnh cửa nhà ai hộ mở thỡ cũng chỉ để lọt ra một khe ỏnh sỏng. Chấm, hột, khe. ề Thạch Lam đó miờu tả ỏnh sỏng quỏ ư riết núng. Nú đối lập với búng tối tràn lan, đậm đặc như đó núi ở trờn. Tỡnh thương của tỏc giả đó chụm lại nơi những điểm sỏng hiu hắt này, khiến ụng thụng cảm và lắng nghe được khỏt vọng nhỏ bộ của những kiếp người nhỏ bộ. 5. Giỏ trị nhõn đạo của tỏc phẩm: Tất cả cảnh vật và con người trờn đõy được dựng làm nền cho tỡnh huống và tõm trạng đợi tàu của chị em Liờn. Nỗi buồn chỏn của chị em Liờn về cuộc sống nơi phố huyện là cơ sở cho khỏt vọng được thoỏt ra khỏi cuộc sống tối tăm, mỏi mũn, bế tắc ấy, dẫn đến một hi vọng ( dự chỉ là mơ hồ ) về một điều gỡ đú ngoài thế giới buồn chỏn này. – Miờu tả những số phận ấy, tỏc giả bộc lộ một sự cảm thụng sõu sắc đối với những kiếp người nhỏ bộ, vụ danh trong xó hội ( đõy là một điều hiếm thấy ở cỏc nhà văn lóng mạn cựng thời ), những kiếp người sống mờ mờ nhõn ảnh, xa lạ với ỏnh sỏng và niềm vui, chỉ dỏm cú những ước mơ nhỏ bộ để khuấy động đụi chỳt cuộc sống quẩn quanh, nhàm chỏn, đơn điệu của mỡnh. ễng đồng cảm và xút thương cho những kiếp người khụng bao giờ được biết tới ỏnh sỏng của hạnh phỳc, những số phận mỏi mũn trong buồn chỏn, vụ nghĩa, đến ngay cả mơ ước một đời của họ cũng nhỏ bộ, tội nghiệp. Nhưng đồng thời, ụng cũng thể hiện sự trõn trọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. – Tỏc phẩm cũn là lời gửi gắm của tỏc giả nhằm thức tỉnh con người, hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, giàu ý nghĩa hơn. 5. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: – Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến thái của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm. Chẳng hạn trong đoạn mở đầu câu truyện, cảnh vật làng quê hiện ra ở đây thật êm ả, thanh bình; nhưng cái chính là nó gợi lên nỗi buồn; nỗi buồn như thấm trong cảnh vật lẫn trong hồn người. – Truyện này có giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan, lời văn dung dị, giàu chất thơ, luôn ẩn hiện trong đó một tình cảm xót thương của Thạch Lam đối với những con người nghèo khổ, phải sống quẩn quanh, lam lũ, tối tăm. Giọng văn ấy có sức gợi mở, khơi sâu vào cảm giác người đọc vừa cho chúng ta nhìn vừa cho chúng ta cảm. Chẳng hạn những đoạn văn nói về hàng nước của chị Tí và gia đình bác Xẩm. III. Ghi nhớ: – Nội dung: Bằng một truyện ngắn trữ tình, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng ước mong vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. – Nghệ thuât: + Cách viết nhuần nhị, tinh tế, gọn gàng và gợi được khá sâu không khí của truyện cũng như trạng thái của sinh hoạt, xúc cảm và tâm hồn. Truyện ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp suy tư, rung cảm. + Câu văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh, rất thi vị nhưng ít khi thừa lời, thừa chữ và không bao giờ uốn éo làm duyên một cách cầu kì, mòn sáo. ———-Hết———-
Soạn Bài Tiếng Hát Con Tàu Trang 142 Sgk Ngữ Văn 12 Tập 1
Soạn bài Tiếng hát con tàu trang 142 SGK Ngữ Văn 12 tập 1
Hình ảnh nhân dân trong kỉ niệm nhà thơ được thể hiện qua những con người cụ thể nào? Phân tích những khổ thơ nói về những kỉ niệm đó để làm rõ sự gắn bó và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với nhân dân
1. Trong bài thơ, hình ảnh con tàu và Tây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể còn có ý nghĩa biểu tượng. Hãy cắt nghĩa nhan đề và 4 câu thơ đề từ.
a. Nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu
– Con tàu là biểu tượng của khát vọng lên đường, khát vọng đi xa, hướng tới cuộc sống của đất nước, nhân dân đi tới chân trời của ước mơ lớn.,đi tới ngọn nguồn cảm hứng của những sáng tạo nghệ thuật.
– Tiếng hát là niềm say sưa của tâm hồn khi tìm được hướng đi và đang trên hành trình đến với nhân dân, đất nước.
– Nhan đề bài thơ có thể hiểu là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lí tưởng, vào cuộc đời. Nhà thơ đã hoá thân thành con tàu, hăm hỏ làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống của nhân dân và đó cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
b. Phân tích khổ thơ đề từ:
– Khẳng định sự gắn bó của thi nhân với Tây Bắc, một miền đất cụ thể, đã trải qua lửa đạn chiến tranh, với những khát vọng xây dựng trong cuộc sống mới, cũng là mảnh đất ươm mầm cho nhiều tác phẩm nghệ thuật nảy nở. Đây cũng chính là cuộc đời rộng lớn của nhân dân, là cuộc đời mới của những con người trẻ tuổi.
– Thể hiện khát vọng lên đường, hoà mình vào cuộc sông rộng lớn của dân tộc, hướng vào mạch nguồn của đất nước, của nhân dân.
c. Bố cục thể hiện sự vận động của tâm trạng chủ thể trữ tình:
Tâm trạng chủ thể trữ tình (trong đó có tác giả) đã đi từ những suy tưởng về quan hệ cá nhân với tập thể, giữa bản thân nhà thơ với Tổ quốc, nhân dân, lấy việc ôn lại kỉ niệm Tây Bắc trong kháng chiến và lòng biết ơn mảnh đất đầu nguồn, nơi nuôi dưỡng cách mạng làm cơ sở, từ đó suy luận về ý nghĩa của Tây Bắc với tư cách là đại diện cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Con tàu cũng được suy tưởng như cuộc hành trình về với nhân dân, với Tổ quốc, và cũng là hành trình đi tìm nguồn cảm hứng cho thơ.
3. Niềm hạnh phúc lớn lao khi gặp lại nhân dân được nhà thơ thể hiện trong khổ thơ nào? Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ đó.
– Khổ thơ thể hiện niềm vui, hạnh phúc lớn lao khi nhân vật trữ tình gặp lại nhân dân:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
– Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ chính là chùm so sánh, liên tưởng hết sức phong phú, độc đáo của tác giả.
4. Hình ảnh nhân dân trong kỉ niệm nhà thơ được thể hiện qua những con người cụ thể nào? Phân tích những khổ thơ nói về những kỉ niệm đó để làm rõ sự gắn bó và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với nhân dân
– Các hình ảnh con người cụ thể đại diện cho nhân dân Tây Bắc trong nỗi nhớ của nhà thơ:
+ Người anh du kích + Thằng em liên lạc
+ Người “mế” với hình ảnh ” lửa hồng soi tóc bạc”.
Đây là những hình ảnh khái quát, tượng trưng cho con người Tây Bắc trong kháng chiến, tuy nhiên đã được tác giả thể hiện bằng những con người, những câu chuyện cụ thể rất sinh động.
– Tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn của nhà thơ đối với nhân dân được thể hiện qua những câu chuyện, những kỉ niệm cụ thể, sâu sắc:
+ Người anh du kích trước đêm tấn công đồn địch còn để lại chiếc áo nâu cho nhân vật trữ tình.
+ Thằng em liên lạc (cách gọi thân mật): “Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”!
+ Người “mế” lửa hồng soi tóc bạc”, “năm con đau” (tức hồi con ốm) má thức một mùa dài”, khiến cho “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.
5. Hãy tìm những câu thơ thể hiện rõ nhất những chất suy tưởng và triết lí của Chế Lan Viên
+ Cách xưng hô trong đoạn thơ thể hiện tình cảm rất thân thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa nhân vật trữ tình với nhân dân Tây Bắc: đó là lời tâm tình trực tiếp giữa hai mẹ con, giữa nhân vật trữ tình với một người “mế” tưởng tượng.
– Những câu thơ thể hiện rõ nhất chất suy tưởng và triết lí của thơ Chế Lan Viên:
” Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
“Tây Bắc ơi! Người Mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
6. Nhận xét và đánh giá nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên trong bài thơ.
Nay trở về ta lấy lại vàng ta”
– Hình ảnh có tính khái quát, màu sắc hiện đại, mang tính triết luận nhưng đậm chất trữ tình.
– So sánh liên tưởng vừa phong phú vừa sắc sảo, độc đáo.
– Ngôn ngữ trau chuốt, gọt giũa, mang tính bác học.
chúng tôi
– Giọng điệu, âm hưởng lôi cuốn.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giáo Án Ngữ Văn 12 Chi Tiết: Tiếng Hát Con Tàu trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!