Đề Xuất 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11: Tự Tình ( Bài Ii ) # Top 12 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11: Tự Tình ( Bài Ii ) # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 11: Tự Tình ( Bài Ii ) mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

TỰ TÌNH ( Bài II ) – Hồ Xuân Hương Mục tiêu bài học Giúp Hs: Cảm nhận được tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Thấy được tài năng nghệ thuật thơ Nôm của Hồ Xuân Hương: thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt, cách dùng từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo mà tinh tế. Chuẩn bị. Giáo viên: đọc tài liệu, soạn giảng. Học sinh: soạn bài trước ở nhà. Tiến trình bài dạy. Ổn định lớp. Kiểm tra bài cũ Trình bày những nét chính về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “ vào phủ chúa Trịnh”. Bài mới. Hoạt động của Gv và Hs Nội dung cần đạt Dựa vào phần tiểu dẫn ở sgk, gv yêu cầu hs nêu những vấn đề cơ bản vể cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của HXH. Giảng. HXH nổi tiếng chủ yếu với những sáng tác bằng chữ Nôm, người ta gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”.Mảng thơ tạo sắc màu riêng trong thơ bà chính là mảng thơ viết về cảnh ngộ riêng tư, đó là cảnh ngộ của một người phụ nữ có bản lĩnh, đầy sức sống, hết mực tài hoa nhưng cuộc đời riêng tư lại là một chuổi bất hạnh. Ngoài ra mảng thơ viết về thiên nhiên cũng rất độc đáo và ấn tượng. Nghệ thuật thơ của bà rất độc đáo, cảnh thiên nhiên được miêu tả rất sinh động. Những âm thanh, màu sắc hình ảnh, hoạt động được bà đưa vào thơ thường mộc mạc, trần tục, với bút pháp châm biếm, trào phúng, ngôn ngữ phổ thông Pv. Trong hai câu đề, nhân vật trữ tình đang ở trong hoàn cảnh như thế nào?có tâm sự gì? Em có nhận xét gì về cách dùng từ của tác giả trong hai câu này? Giảng. Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy bé nhỏ, cô đơn, ở đây HXH lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thuỷ vô chung, “đêm khuyadồn”: cái nhịp gấp gáp liên hồi của trống vừa là sự cảm nhận vừa là sự thể hiện bước đi liên hồi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi đi thì còn lại là sự bẽ bàng “Trơ” đặt đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. “trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó hai chữ “hồng nhan” là để nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm lại càng đau. Nhịp điệu câu thơ: 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng. Tuy nhiên bên cạnh nỗi đau là bản lĩnh Xuân Hương, bản lĩnh ấy thể hiện ngay trong chữ “trơ”. Trong văn cảnh câu thơ, chữ “trơ” không chỉ là bẽ bàng mà còn là thách thức. Chữ trơ kết hợp với từ nước non để thể hiện sự bền gan thách đố. Pv. Hai câu thực thể hiện tâm sự gì của XH? Tâm sự ấy được thể hiện qua những từ ngữ nào? Giảng. Cụm từ “say lại tỉnh” → vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa tăng và người. Trăng sắp tàn ( “bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm duyên ôi Pv. Thái độ của nhà thơ trong hai câu này như thế nào? Em có nhận xét gì về việc dùng từ của tác giả ở đây? Giảng. Hai câu thơ gợi cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu, nó phải mọc xiên, lại xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng chính là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Các đt mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ: ngang, toạc → bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, trời mà hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là phản kháng Pv. Tâm trạng của nhà thơ trong hai câu cuối? nhận xét về cách dùng từ? Giảng. “ngán” là chán ngán, ngán ngẩm, XH ngán lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. từ “xuân” có 2 nghĩa: vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với nhiên nhiên, với muôn nghìn hoa lá cỏ cây, nhưng vời con người thì tuổi xuân qua không bao giờ trở lại. Từ “lại” cũng có 2 nghĩa. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi, chỉ còn tí con con, nên càng xót xa tội nghiệp→ nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi với họ hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp. Pv. Tổng hợp lại những nét chính về nội dung và nghệ thuật của bài thơ? Tìm hiểu chung Tác giả. Cuộc đời. HXH (?- ? ) là một trong những nữ sĩ tài ba bậc nhất của văn học trung đại VN đầu tk XIX. Quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là người rất thông minh, không được học nhiều, nhưng giao thiệp rộng. Đường tình duyên lận đận, ngang trái: hai lần lấy chồng đều hai lần làm lẽ, rồi chồng chết, lại sống độc thân. Sự nghiệp sáng tác Hồ Xuân Hương sáng tác cả chữ Nôm lẫn chữ Hán.Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng 40 bài thơ Nôm tương truyền là của bà. Ngoài ra còn có tập Lưu Hương kí gồm có 24 bài thơ bằng chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm. Nổi bật trong những sáng tác của bà là tiếng nói thương cảm đối với những phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp của họ. Tác phẩm: bài thơ nằm trong chùm thơ tự tình ( I, II, III ) Thể loại: TNBCĐL Bố cục: 4 phần: đề, thực, luận, kết. Chủ đề: Bài thơ là nỗi thương mình trong cô đơn lẽ mọn, khao khát hạnh phúc, tuổi xuân. Đồng thời thể hiện thái độ bứt phá, vùng vẫy, muốn thoát ra khỏi cảnh ngộ, muốn vươn lên giành hạnh phúc nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Phân tích. Hai câu đề. Mở đầu bài thơ là điểm thời gian canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với mình cũng là lúc XH nhận ra tình cảnh đáng thương của mình.Sự cô đơn trơ trọi được đặt trong thời gian. – Tiếng trống canh được cảm nhận trong cái tỉnh lặng, trong sự phấp phỏng như sợ bước chuyển mau lẹ của thời gian. Đối diện với thời gian ấy là “cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh nỗi đau của sự cô đơn, của sự bất hạnh trong tình duyên. Hai câu thực Trong khoảnh khắc của canh khuya ấy là một con người cùng đối diện với rượu và trăng, mượn trăng làm bạn, mượn rượu vơi sầu. Nhưng rượu không thể say, trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Đó là một nỗi niềm chất chứa thấm lan vào cảnh vật. Ngậm ngùi thân phận con người, tuổi xuân qua mau mà duyên vẫn còn chưa trọn vẹn. Hai câu luận. Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên, cũng là tâm trạng của con người. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với những bổ ngữ: ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, một tâm trạng khác thường, khác người. Hai câu kết. HXH đã quá ngán ngẩm nỗi đời éo le, bạc bẽo. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên, nhưng với con người thì mùa xuân qua không bao giở trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa tội nghiệp. → Nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, với họ, hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp. Tổng kết. Nội dung: Qua lời tự tình, bài thơ nói lên cả bi kịch và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của HXH. Trong buồn tủi, người phụ nữ gắng vựơt lên trên số phận nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch. Nghệ thuật. Sử dụng từ ngữ giản dị mà đặc sắc (trơ, xiên ngang, đâm toạc,), hình ảnh giàu sức gợi cảm ( trăng khuyết chưa tròn, rêu xiên ngang,) để diễn tả các biểu hiện phong phú, tinh tế của tâm trạng.

Giáo Án Bài Tự Tình Ngữ Văn 11

Giáo án điện tử Ngữ văn 11 bài Tự tình

Giáo án bài Tự tình

Giáo án bài Tự tình Ngữ văn 11 giúp học sinh nhanh chóng biết được tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước tình cảm éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Qua bài giáo án điện tử ngữ văn 11 này, các em sẽ thấy được tài năng nghệ thuật thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, thơ Đường luật viết bằng tiếng việt, cách dùng từ

Bài giảng bài Tự tình Ngữ văn 11

https://vndoc.com/giao-an-ngu-van-lop-11 bài: TỰ TÌNH– Hồ Xuân Hương –

A. Mục tiêu bài học.

Cảm nhận được tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.

Thấy được tài năng thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

Đọc hiểu thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.

Phân tích bình giảng bài thơ.

Rèn kĩ năng đọc diễn cảm và phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình.

Trân trọng, cảm thông với thân phận và khát vọng của người phụ nữ trong xã hội xưa.

B. Chuẩn bị bài học: 1.1. Dự kiến bp tổ chức hoạt động cảm thụ tác phẩm:

Tích hợp phân môn: Làm văn. Tiếng việt. Đọc văn.

2. Học sinh:

Chủ động tìm hiểu bài học theo định hướng câu hỏi SGK và định hướng của GV.

C. Hoạt động dạy và học:

Khi xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, làm cho cuộc sống của người nông dân vô cùng khổ cực, đặc biệt là người phụ nữ. Và không ít nhà thơ, nhà văn đã phản ánh điều này trong tác phẩm như: “Truyện kiều” (Nguyễn Du), “Chinh phụ ngâm” (Đặng trần Côn), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), …Đó là những lời cảm thông của người đàn ông nói về người phụ nữ, vậy người phụ nữ nói vè thân phận của chính họ như thế nào, ta cùng tìm hiểu bài “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương.

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu khái quát. Thao tác 1: Tìm hiểu vài nét về tác giả.

GV gọi 1 HS đọc phần tiểu dẫn SGK và đua ra câu hỏi HS trả lời gv nhận xét, chốt ý.

1) Nêu vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương ?

Định hướng câu trả lời của HS:

– Hồ Xuân Hương (?-?)– Quê Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội.– Là một người phụ nữ có tài nhưng cuộc đời và tình duyên gặp nhiều ngang trái.

Thao tác 2: Tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác.

Em hãy nêu vài nét về sự nghiệp sáng tác và xuất xứ bài thơ “Tự tình II”?

– Hồ Xuân Hương là thiên tài kì nữ nhưng cuộc đời gập nhiều bất hạnh.– Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm chất dân gian từ đề tài,cảm hứng ngôn từ và hình tượng.

– Sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm nhưng thành công ở chữ Nôm.→ được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”.– Bài thơ “Tự tình” nằm trong chùm thơ tự tình gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương.

Bài tiếp theo:

Soạn Bài Tự Tình (Ii) Trang 18 Văn 11

1. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài năng, là hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, song cũng là nhà thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến: Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà Nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống ở Thăng Long. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.

2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng không thiếu sự dịu dàng yếu đuối của nữ tính. Bài thơ đã thể hiện một số đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương, đó là cảm xúc táo bạo, cái Tôi cá nhân đầy tâm trạng và những hình thơ đầy cá tính với một niềm khát khao hạnh phúc, khát khao sống mãnh liệt. Bài thơ Tự tình tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Xuân Hương ở nỗi cô đơn, ở niềm khát khao hạnh phúc, ở tâm trạng uất ức luôn muốn phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của cuộc sống. Trong bài thơ có sự xuất hiện rất rõ ràng và cụ thể hình tượng nhân vật trữ tình. Cái Tôi cá nhân xuất hiện rất rõ với tâm trạng buồn và cô đơn trĩu nặng.

II. SOẠN BÀI HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI 1. Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả

Bài thơ mở ra bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá đặc trưng:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non

Thông thường, giữa không gian mênh mông rợn ngợp, con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm thấy cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thủy, vô chung nhưng nếu không gian chỉ đủ gợi cho con người sự rợn ngợp thì thời gian còn tàn phá những gì mà nó đi qua.

Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi buồn. Cái buồn gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Câu thơ thứ hai gợi cảm nhận vé sự bẽ bàng của thân phận một cách dữ dội hơn:

Trơ cái hồng nhan với nước non

Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” (chỉ dung nhan người thiếu nữ) lại đi với từ “cái” thật là rẻ rúng, mỉa mai. Cái “hồng nhan” trơ với nước non đúng là không chỉ gợi sự dãi dầu mà đậm hơn có lẽ là ở sự cay đắng. Câu thơ chỉ nói đến hồng nhan mà lại gợi ra cả sự bạc phận của chủ thể trữ tình. Thật cay đắng, xót xa. Nhịp câu thơ 1/3/3 cũng như vậy, cứ chì chiết, càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.

Tuy nhiên câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau, mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình nữa. Bản lĩnh ấy thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” như là một sự thách thức vậy. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta nghĩ đến mộl câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long thành hoài cổ (“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”).

Nếu hai câu để làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.

Thời gian không ngừng trôi và dường như nhân vật trữ tình cũng cô đơn ngồi đối diện với đêm khuya và với vầng trăng lạnh. Cảnh tình Xuân Hương thể hiện qua hình tượng chứa đựng hai lần bi kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn” Cùng đó là với Xuân Hương, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu chỉ càng gợi thêm sự cô đơn và cái bẽ bàng của phận hẩm duyên. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành một trò đùa của con tạo.

2. Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?

Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận dường như cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn, không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt thoát hẳn lên: rêu phải mọc “xiên ngang mặt đất”, đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Cùng với biện pháp đảo ngữ là sự kết hợp giữa những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo (ngang, toạc) thể hiện rất rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh. Câu thơ cựa động căng đầy sức sống. Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hoá. Có thể nói, trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống, một khát khao.

3. Hai câu thơ nói lên tâm trạng gì của tác giả?

Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:

Ngán nỗi xuân di xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!

“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Nhưng tại sao? Xuân Hương ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi xuân đi rồi xuân lại lại, tạo hoá đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính chuyện duyên tình của con người vậy.

Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại. Đó là sự khắc nghiệt của tạo hoá. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, đó là cái gốc sâu xa của sự ngán ngẩm kia.

Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình – vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.

4. Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.

Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Xuân đi rồi xuân đến, thời gian của thiên nhiên, của trời đất cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi qua đi không trở lại. Trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình càng làm tăng thêm sự xót xa. Rơi vào hoàn cảnh ấy, với nhiều người có thể không tránh khỏi sự tuyệt vọng, thậm chí phó mặc, buông xuôi. Thế nhưng, Xuân Hương không thế. Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc vẫn gồng mình lên, vẫn muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của con tạo. Sự phản kháng và khát khao ấy ở Hồ Xuân Hương làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.

III. LUYỆN TẬP Bài làm

Mở đầu chùm ba bài thơ Tự tình, Xuân Hương viết:

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

Mõ tliảm klĩông khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tỉêhg thêm rền rĩ,

Sau giận vì duyên dể mõm mòm.

Tài tử văn nhân ai dó tá?

Thân này đâu dã chịu già tom!

So sánh bài thơ này (bài I) với Tự tình (bài II), ta thấy cả hai bài thơ đều cùng bộc lộ một tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.

Về mặt hình thức, cả hai bài thơ cùng cho thấy tài năng sử dụng tiếng Việt sắc sảo, tài hoa của Hồ Xuân Hương, nhất là khả năng sử dụng độc đáo các định ngữ và bổ ngữ như: mõ thảm, chuông sầu, tiếng rền rĩ, duyên mõm mồm, già tom ( Tự lình, bài I), xiên ngang, đâm toạc (Tự tình, bài II). Hồ Xuân Hương cũng rất thành công khi sử dụng một cách điêu luyện các biện pháp nghệ thuật như: đảo ngữ, tăng tiến…

Mặc dù vậy, tất nhiên hai bài thơ vẫn có những nét riêng dễ nhận. Ở bài Tự tình, yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn, gấp gáp hơn. Có vẻ như bài thơ này được viết khi tác giả chưa trải qua nhiều biến cố về duyên phận như khi tác giả viết bài Tự tình II chăng?

IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Về tác giả

“… Đường chồng con chắc nhiều long đong. Đến nay mới rõ tên một người chồng là Trần Phúc Hiển, vào những năm 1810, thế kỷ XIX làm tri phủ Tam Đài tức về sau là Vĩnh Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An Quảng và mất năm 1819. Còn ông phủ Vĩnh Tường có phải Trần Phúc Hiển hay một người khác, Tổng Cóc là ai? Có phải là Nguyễn Bình Kính ở phủ Lâm Thao hay là người nào? Cứ lẽ thường ngày xưa, khó lòng một ông quan tỉnh lại đi lấy vợ góa của kẻ thấp hơn mình dù lấy làm thiếp và vì nể tài. Mấy mươi bài thơ xướng họa giữa Tốn Phong Thị được sáng tác vào quãng 1807-1814, mà giọng chân thực không có gì đáng nghi ngờ, lại cho thấy một Hồ Xuân Hương không còn mười tám đôi mươi nhưng “quả mai ba bảy đương vừa” mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số má đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng con. Chỗ này chưa thấy ánh sáng. Điều chắc chắn là phận chồng con không ra gì.

Một điều thường được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới Thanh Hóa, qua đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, còn Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông đều có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có người không dám tin, nhưng thơ Hồ Xuân Hương lại là bằng chứng.

Xuân Hương lãng du như thế vào thời gian nào? Khó mà xác định nhưng bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của Xuân Hương.

Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng tin bằng lời thơ của Miên Thẩm: trước 1842. Như vậy Xuân Hương thuộc vào thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du.

Nói thêm một chút về ngôn ngữ: Sở dĩ ngôn ngữ Xuân Hương lột được mọi ý đồ của nữ sĩ chính vì cái tài vô song của người vận dụng. Cái tài ấy chẳng khác cái tài của người làm xiếc. Vượt xa trên mức tưởng tượng. Tài tình như thần thông biến hóa. Dân gian mà cổ điển. Điêu luyện mà cứ hồn nhiên. Thực hư, hư thực, nó đấy mà không phải nó, bóng mà hình, hình mà bóng, đùa mà thật, thật mà đùa. Có vẻ như Tôn Ngộ Không. Với Tam Tạng thì chỉ một thân, trung thực, chân chất đến xúc động, nhưng với yêu quái, ma vương thì có đến trăm Tôn Ngộ Không, chẳng biết đâu là thật là giả…

Chính xác đến ghê người. Nói đến con dê chưa thật đã lớn, nhưng cũng chẳng còn là dê con, loại dê choai choai, hăng máu một cách liều lĩnh, Xuân Hương dùng “dê cỏn” chứ không dùng “dê con”. ấy là Xuân Hương muốn chỉ bọn thầy khóa hãy trẻ tơ, chưa đủ lông đủ cánh gì, non nớt tuổi đời, non cả tài thơ mà dám chơi trèo, định ghẹo tới bà chị và làm thơ để ghẹo…

Chỗ tài tình nhất có lẽ là sự lấp lửng nghĩa nọ nghĩa kia, ở một hình tượng, ở một từ, một cách nói…

Đồn rằng Nguyễn Khuyến nói về Hồ Xuân Hương có câu:

Thơ thánh, thơ tiên đời vẫn có,

Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay!

Tản Đà cũng cho “trong thơ Xuân Hương có quỷ”. Xuân Diệu gọi nữ sĩ là “Bà chúa thơ Nôm”. Hẳn đó là những lời khen đáng tin. Tuy có vẻ mỗi người như muốn nhìn một mặt của thơ Xuân Hương, nhưng ngẫm kỹ thì đều dụng ý nói toàn diện cái tài tình của nữ sĩ, nội dung cũng như hình thức.”

Lê Trí Viễn

( Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương

Sở giáo dục Nghĩa Bình xuất bản năm 1987)

2. Thơ Hồ Xuân Hương

“Nhìn chung trong thơ cổ điển của nước ta, bao gồm từ Chu Mạnh Trinh trở lên, nếu xét về khía cạnh có tính cách dân tộc hơn cả có lẽ thơ Hồ Xuân Hương “thì treo giải nhất chỉ nhường cho ai”. Thơ Hồ Xuân Hương Việt Nam hơn cả vì đã thống nhất được đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng…

…Nội dung thơ Hồ Xuân Hương toát ra từ đời sống “bình dân, hằng ngày và trên đất nước nhà. Xuân Hương nói ngay những cảnh có thực của núi sông ta, vứt hết cả sách vở, khuôn sáo, lấy hai con mắt của mình mà nhìn, cái đèo Ba Dội của Xuân Hương rõ là ba dội, ba đèo, tùm hum nóc, lún phún rêu, gió lắt lẻo, sương đầm đìa, phong cảnh sống như cựa quậy lên…

…Hồ Xuân Hương tưởng như đã lìa cái gốc nho sĩ của mình mà “lăn lóc” giữa bình dân. Xuân Hương là con ốc, quả mít, cái bánh trôi. Xuân Hương làm thơ với cỏ gà, cá giếc, quả cam, lá trầu, con ong, cái giếng, khung cửi, cây đa, cái diều… Mà những thứ ấy vẫn giữ nguyên chất bình dân, chứ không bị mang hia, đội mũ như trong lối thơ khẩu khí…

… Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt, bà chúa thơ Nôm… Xuân Hương đã làm cho chữ “nôm na” không đồng nghĩa với “mánh qué” nữa, mà nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm là chúa cả nội dung và hình thức. Xuân Hương đã sáng tạo được một chất thơ rất man mác, nên thơ…

Giáo Án Ngữ Văn 11

– Sống vào khoảng TKXVIII, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

– Sống chủ yếu ở Thăng Long, có 1 ngôi nhà tên Cổ Nguyệt Đường.

– Con vợ lẻ, tính tình phóng túng, đi nhiều nơi, kết giao nhiều bạn bè, thân thiết với nhiều danh sĩ.

– Là 1 thiên tài kì nữ nhưng cuộc đời, tình duyên lại gặp nhiều bất hạnh, ngang trái.

– Sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán.

– Được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm (Xuân Diệu).

– Là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của VHVN nửa cuối TK XVIII – nửa đầu TK XIX.

– Nội dung sáng tác: chủ yếu là tiếng nói cảm thương đối với người phụ nữ, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.

a. Xuất xứ: Nằm trong chùm Tự tình (3 bài).

b. Hoàn cảnh sáng tác: Nếu bài thơ “Mời trầu” được HXH sáng tác ở giai đoạn đầu khi nữ sĩ mới bước vào con đường tình duyên thì “Tự tình” có lẽ ra đời trong giai đoạn bà đã trải qua quá nhiều sóng gió trong đời sống hôn nhân.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Hai câu đề: Cảnh cô đơn trong đêm khuya vắng:

– Hai câu đề mở ra thời gian, không gian và hoàn cảnh mang tính bi kịch của nhân vật.

– TG: đêm khuya  thanh vắng, thời điểm thích hợp để con người đối diện với chính mình, để thương xót, để tự vấn, để nhìn ngắm lại bản thân mình.

TỰ TÌNH II --Hồ Xuân Hương- I. Tìm hiểu chung: 1. Tác giả: - Sống vào khoảng TKXVIII, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Sống chủ yếu ở Thăng Long, có 1 ngôi nhà tên Cổ Nguyệt Đường. - Con vợ lẻ, tính tình phóng túng, đi nhiều nơi, kết giao nhiều bạn bè, thân thiết với nhiều danh sĩ. - Là 1 thiên tài kì nữ nhưng cuộc đời, tình duyên lại gặp nhiều bất hạnh, ngang trái. - Sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán. - Được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm (Xuân Diệu). - Là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của VHVN nửa cuối TK XVIII - nửa đầu TK XIX. - Nội dung sáng tác: chủ yếu là tiếng nói cảm thương đối với người phụ nữ, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. 2. Tác phẩm: a. Xuất xứ: Nằm trong chùm Tự tình (3 bài). b. Hoàn cảnh sáng tác: Nếu bài thơ "Mời trầu" được HXH sáng tác ở giai đoạn đầu khi nữ sĩ mới bước vào con đường tình duyên thì "Tự tình" có lẽ ra đời trong giai đoạn bà đã trải qua quá nhiều sóng gió trong đời sống hôn nhân. II. Đọc - hiểu văn bản: 1. Hai câu đề: Cảnh cô đơn trong đêm khuya vắng: - Hai câu đề mở ra thời gian, không gian và hoàn cảnh mang tính bi kịch của nhân vật. - TG: đêm khuya ® thanh vắng, thời điểm thích hợp để con người đối diện với chính mình, để thương xót, để tự vấn, để nhìn ngắm lại bản thân mình. - KG: vắng lặng, mênh mông, chỉ có tiếng trống canh báo hiệu thời gian đã trôi qua. + văng vẳng: từ láy (mô típ quen thuộc) ® cảm nhận sự trôi đi của thời gian bằng thính giác. + trống canh dồn ® bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. ® Bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc trong thơ cổ. ® Cảm nhận rất Á Đông của 1 người thiếu phụ đối điện với nước non nghìn trùng trong đêm vắng đang lắng nghe từng giọt buồn. (Liên hệ: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì - "Bỡn bà lang khóc chồng" Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom - "Tự tình I") - Con người: + Trơ: đảo ngữ ® nhấn mạnh: Ÿ Trơ trọi, cô đơn ® tủi hổ, bẽ bàng (Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ - "TK".ND) Ÿ Thách thức ® bản lĩnh (Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt - "Thăng Long thành hoài cổ".BHTQ) + cái hồng nhan ® rẻ rúng, mỉa mai ® thân phận nhỏ bé. + nước non ® KG rộng lớn, con người xuất hiện trong tư thế đối lập với KG mênh mông, cái cá thể trơ trọi trước cái vô cùng, cái rộng lớn. ® Các yếu tố nghệ thuật hô ứng nhau nhằm nhấn mạnh nỗi niềm trơ trọi, cô đơn đến tận cùng của người phụ nữ - ý thức nỗi đau thân phận. ® Nhịp 1/3/3 + đối ® Bên ngoài là bản lĩnh, bên trong là nỗi đau ® tâm trạng cô đơn, buồn tủi, bẽ bàng về duyên phận. ð Trong đêm khuya vắng, người phụ nữ cô đơn cảm thấy thương cho thân phận mình. 2. Hai câu thực: Nỗi niềm cay đáng, chán chường: - Chén rượu hương đưa ® mượn rượu giải sầu cho quên sự đời. - say lại tỉnh ® lúc tỉnh ra, người phụ nữ cô đơn, trơ trọi ấy chẳng thể vơi bớt nỗi sầu. ® Người phụ nữ cô đơn tìm men rượu che giấu nỗi buồn nhưng nỗi buồn không thể nhạt phai. ® Cái vòng lẩn quẩn, tình duyên thành trò đùa của con tạo ® càng cảm nhận nỗi đau thân phận. (Rút kiếm chém nước, nước càng chảy mạnh. Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu - Lí Bạch). ® Uống rượu để giải sầu, để sẻ chia nhưng say lại tỉnh, nỗi đau khổ nhân lên vạn lần (Liên hệ: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa - chúng tôi Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua - KDK.NK) - Vầng trăng: tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. - bóng xế khuyết chưa tròn ® hình tượng chứa hai lần bi kịch: trăng sắp tàn vẫn chưa tròn - tình duyên chưa vẹn. ð Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh thể hiện tâm trạng sầu muộn, xót xa khi tuổi thanh xuân đã trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn - nỗi đau về tuổi lỡ thời. 3. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, muốn bức phá: - rêu, đá ® trong thơ xưa rêu, đá vốn mềm yếu, trong tư thế tĩnh nhưng ở thơ HXH rêu, đá không chịu mềm yếu, muốn rắn chắc hơn với tư thế tấn công. ® Cảnh thiên nhiên hiện lên đầy sức sống, sinh động, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh của tâm trạng, 1 tâm trạng bị dồn nén, muốn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường, thể hiện khao khát hạnh phúc. - Xiêng ngang, Đâm toạc: ngôn ngữ dân gian bình dị mà giàu sức gợi: + Động từ mạnh mẽ kết hợp bổ ngữ độc đáo, thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. + Đảo ngữ làm nổi bật sự phẫn uất của tâm trạng. ® Nhịp 4/3 + NT đối, nhịp thơ vút lên ® HXH mang 1 tính cách mạnh mẽ, ý thức về cái tôi cá nhân luôn hiện hữu, bà không cam chịu, tâm trạng bị dồn nén muốn phản kháng, muốn vượt khỏi số phận hẩm hiu. ® Cảnh vật hiện lên với những nét vẻ "phá cách" ® PC thơ Nôm HXH: Cảm xúc và ý thức phản kháng đã mang đến cho cảnh sắc trong thơ HXH 1 trạng thái động, khác hẳn phong vị thơ cổ. ð Cách dùng từ độc đáo thể hiện cá tính mạnh mẽ, tài năng của tác giả: cảnh vật hiện lên sinh động, đầy sức sống dù trong tình huống bi thương vẫn không cam chịu, luôn khát khao hạnh phúc. 4. Hai câu kết: Tâm trạng chán chường, buồn tủi mà cháy bỏng khát vọng hạnh phúc: - Ngán: từ dân gian ® chán ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo. - xuân (mùa xuân, tuổi xuân) ® điệp từ ® sự tuần hoàn của tạo hóa: mùa xuân đi rồi trở lại nhưng tuổi xuân qua rồi thì không bao giờ trở lại. - lại ® từ đồng âm: lại [1] - phụ từ (thêm lần nữa), lại [2] - động từ (trở lại) ® vòng lẩn quẩn của tạo hóa: sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. ® Thời gian cứ vô tình trôi lặng lẽ, biết bao mùa xuân mang theo chút hy vọng mong manh rồi cũng đi qua, tuổi xuân của 1 đời người con gái cũng lặng lẽ phôi pha cùng năm tháng. - Mảnh tình: tình cảm ít ỏi, nhỏ bé. - san sẻ ® động từ ® chia sẻ cho người khác. - tí con con ® từ đồng nghĩa ® tình cảm được hưởng thật mong manh. ® NT tăng tiến thể hiện tâm trạng ngao ngán, chán chường, xuất phát từ sự không phù hợp giữa khát vọng tình yêu nồng thắm với hiện thực lẻ mọn, hẩm hiu; nhấn mạnh sự nhỏ bé của thân phận lẻ mọn. Đó cũng là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa. Với hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp (Liên hệ: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung - "Làm lẻ" - HXH) ð Lời than thở thể hiện khát khao hạnh phúc của HXH. ® Ý nghĩa nhân văn: trong buồn tủi, người phụ nữ gắng gượng vượt lên trên số phận nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch. III. Tổng kết: 1. Ý nghĩa VB: Bản lĩnh HXH được thể hiện qua tâm trạng đầy bi kịch: vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được hạnh phúc. 2. Nội dung: Bài thơ thể hiện tâm trạng, thái độ của HXH: vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và phê phán gay gắt chế độ đa thê phong kiến, đồng thời cũng thể hiện thái độ chống đối lại số phận nhưng bất lực. 3. Nghệ thuật: Tài năng độc đáo của Bà chúa thơ Nôm trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh; sử dụng những từ ngữ giản dị mà đặc sắc, hình ảnh giàu sức gợi. ---HẾT---

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giáo Án Ngữ Văn 11: Tự Tình ( Bài Ii ) trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!