Cập nhật nội dung chi tiết về Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Thương Vợ mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Thương vợ” của Tế Xương
Bài làm
Cảm nhận của em về bài thơ “Thương vợ” – Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, viết về vợ là một điều gì đó thật sự hiếm hoi và mờ nhạt. Người vợ, với những vất vả lo toan cho cuộc sống nhưng lại chưa từng được ngợi ca trong những sáng tác. Và khi Tế Xương viết nên bài thơ “Thương vợ”, chúng ta mới cmar nhận được tình yêu, sự thương xót của ông đối với vợ lớn lao và mãnh liệt biết nhường nào.
Mở đầu tác phẩm, Tế Xương vẽ nên bức tranh chân thực về cuộc sống lam lũ, cơ cực của bà Tú.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Cụm từ ‘quanh năm” như muốn nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc của người vợ. Từ ngày này qua ngày khác rồi lại năm này đến năm kia, bà cứ vùi mình với những gánh vác, lo toan cho cuộc sống. Nó như một vòng tuần hoàn khép kín. Dường như, cuộc đời bà chưa bao giờ có một ngày được dừng lại, được nghỉ ngơi. Vòng thời gian ấy cứ xoay mãi, xoay mãi cuốn theo vết chân của bà Tú. Chúng cứ nối tiếp nhau, đeo bám suốt cuộc đời bà với biết bao cực nhọc. Bà làm lụng ngày đêm suốt tháng để lo cho gia đình, cho “năm con với một chồng”. Con số cụ thể ở đây dường như nói lên một cái gì đó thật nghẹn ngào, chua xót. Năm đứa con, đó là nghĩa vụ, là trách nhiệm của một người mẹ mà không ai bàn cãi. Nhưng ở đây, con số “một’ chồng, tuy là số ít thật đấy, những nó còn nặng, còn to tát hơn bất kì con số nào khác. Tại sao lại như vậy? Vốn dĩ, trong xã hội phong kiến, chồng là trụ cột, là người giữ vai trò chủ đạo trong gia đình. Đáng nhẽ ra, chồng phải là người có đủ khả năng để nuôi vợ nuôi con nhưng với gia đình ông Tú lại khác. Tám lần đi thi, suốt chặng đường dài quanh năm đèn sách, đã không làm ra lại còn tiêu tốn rất nhiều, từng miếng cơm manh áo của gia đình đều đè nặng lên đôi vai người vợ. Nhìn bà lam lũ, tác giả không biết phải làm gì ngoài sự đau đớn và xót thương vợ. Qua đó ông cũng phần nào thể hiện sự biết ơn của mình đối với bà Tú. Đồng thời, ông cũng bộc lọ sự hổ thẹn và bất lực của bản thân khi là một đấng nam nhi, một người chồng nhưng không thể lo cho vợ con, đã vậy còn đeo lên vai vợ những gánh nặng chồng chất.
Eo xèo mặt nước buổi đò đông
Nghĩ đến sự lam lũ của vợ, ông liên tưởng đến hình ảnh “con cò lặn lội bờ ao”. Giữa mênh mông hoang vắng, cò lầm lũi, một mình kiếm ăn. Thân cò hao gầy cùng những khó khăn của cuộc đời. Bà Tú, năm này qua năm khác, một mình chắt chiu cho chồng cho con. Những bước đi của bà lúc nào cũng đơn độc, quạnh hiu. Rồi trong buổi đò đông, bà Tú lại một mình chen chúc, giành dật giữa biết bao con người để kiếm được món hàng ngon, bổ, rẻ. Trong chuyến đò ấy, biết bao nhiêu hiểm nguy, bao nhiêu ánh mắt hung tợn đang tranh dành, cướp giật. Tác giả sử dụng hai hình ảnh “quãng vắng” và “đò đông’, tưởng như là đối lập, là phủ định nhau nhưng chính vì sự đối lập này cang thể hiện được sự cực nhọc của người vợ. Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào thì cuộc đời của bà vẫn luôn là những vất vả, lo toan.
Bà hy sinh bản thân cho gia đình, cho chồng, cho con nhưng chưa bao giờ kêu than, hay oán trách.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Những con số một lần nữa lại xuất hiện. Một-hai, năm-mười như là hai vế đối nhau để tạo nên tính nhạc cho vần thơ. Nhưng thực chất nó là sự xót xa, thương vợ của Tế Xương. Nghĩa vợ chồng là do duyên, do nợ mà thành. Nhưng với bà Tú, duyên thì ít, nợ thì nhiều. Lấy ông Tú, cuộc đời bà khổ cực hơn, gian nan hơn nhưng bà chấp nhận hết. Quanh năm dầm mưa dãi nắng bà vẫn không một lời oán trách. Dù năng, dù mưa bà vẫn một mình lầm lũi, một mình cơ cực để lo toan cho gia đình.
Càng xót thương vợ bao nhiêu, ông Tú càng uất hận đời, uất hận mình bấy nhiêu.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Ông thấy hận thói đời bạc bẽo. Cái tư tưởng “trọng nam khinh nữ’ cổ lỗ đã biến ông trở nên ỷ lại và lộng hành. Ông chỉ việc đèn sách mà mặc cho vợ mình quần quật ngày đêm. Vì cái thời đó, “xuất giá tòng phu”, phụ nữ phải chăm sóc, phải phục vụ chồng như trách nhiệm và nghĩa vụ mà ông trời đã sắp đặt sẵn. Họ không không có quyền lựa chọn hay thay đổi.Dù khó khăn, gian khổ thì đó cũng là số phận của họ. Oán đời bao nhiêu, ông lại hận mình bấy nhiêu. Một người học cao tài rộng thì sao, sao không lo nổi cho vợ con mà bắt họ phải chịu nhục, chịu vất vả vì bản thân mình. Ông cảm giác như mình là một kẻ ăn hại, một kẻ bạc bẽo, một người chồng “có cũng như không”. Thế nhưng thực ra, Tế Xương đã rất yêu thương vợ mình, ông quan sát, ông hiểu từng nỗi cơ cực của vợ. Ông cũng không hờ hững, không mặc kệ bà Tú. Cái sự trách mình của ông như lên án sự bất công của xã hội phong kiến, đặc biệt là với những người phụ nữa thấp cổ bé họng, không ai khác bà Tú chính là một điển hình.
Bài thơ “Thương vợ” tuy ngắn gọn nhưng trong đó chứa đựng biêt bao tình cảm của một người chồng dành cho vợ. Đó là sự xót xa, là nỗi uất hận khi bản thân không giúp được cho gia đình. Qua đó, ông muốn đề cao vai trò và sự gánh vác với bao nhọc nhằn của bà Tú, một kiếp người nhỏ né trong cái xã hội tối tăm.
Seen
Cảm Nhận 2 Câu Đầu Bài Thương Vợ
Cảm nhận 2 câu đầu bài Thương vợ – Đọc tài liệu tổng hợp dàn ý chi tiết và một số bài văn hay cảm nhận về hai câu đầu bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.
1. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi
– Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
– Hai câu thơ đầu đặc biệt khắc họa hình ảnh của bà Tú đầy tần tảo
2. Thân bài “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”
– Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.
⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định
– Lí do:
+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.
⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang
+ Cách dùng số đếm độc đáo để người đọc cảm thấy “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.
⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.
3. Kết bài
– Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công khắc họa sự vất vả của người phụ nữ xưa.
– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.
Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng
Nhà thơ Tú Xương (Trần Tế Xương, 1870 – 1907) là một trong những đại diện xuất sắc nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Dù chỉ để lại trên dưới 100 tác phẩm nhưng tên tuổi và sự nghiệp thơ ca của Tú Xương đã trở thành bất tử. Thơ của ông gồm 2 mảng chính là: trào phúng và trữ tình, nhưng trữ tình mới là cái rễ, cái gốc, còn trào phúng chỉ là cành, là lá. Tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình cho tài thơ Nôm độc đáo của Tú Xương phải kể đến bài thơ ” Thương Vợ “. Đây là một trong những áng thơ hay và cảm động nhất mà Tú Xương viết tặng cho người bạn đời của mình – người mà ông hết lòng yêu thương, trân trọng. Qua tấm lòng yêu thương của mình, nỗi vất vả, nhọc nhằn cùng sự đảm đang của bà Tú đã hiện lên xúc động ngay từ những nét phác họa đầu tiên:
“Trọng nam khinh nữ, văn dĩ tài đạo, thơ dĩ ngôn chí” đó là quan niệm đã ăn sâu và đời sống văn hóa Văn học Việt Nam đặc biệt là giai đoạn văn học trung đại. Vì thế thơ trung đại có rất ít nhà thơ, nhà văn viết về người vợ. Nhưng với Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông có hẳn một đề tài về bà Tú rất phong phú vể thể loại gồm thơ, văn câu đối. “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về người vợ của mình.
Là “con gái nhà dòng” lấy chồng nho sinh, bà Tú những tưởng được sống cảnh thanh nhàn “bên chàng đọc sách, bên nàng quay tơ” và sớm được hưởng hiển vinh: võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Đằng này, giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng, mua chữ bán danh, ông Tú tài hoa nhưng đi thi chín lần đều bị đánh trượt, chỉ đỗ Tú Tài, công danh dang dở, sự nghiệp không thành. Bởi thế gánh nặng đè lên vai bà Tú. Nói là buôn bán cho sang chứ thực ra bà Tú nào có phải là thương nhân buôn to, bán lớn. Mỏng lưng ngắn vốn, bà Tú chấp nhận cảnh buôn thúng bán mẹt nơi đầu sông cuối bãi, chỗ mom sông. Mom sông là dải đất nhô ra bờ, ba bề là nước chênh vênh, cheo leo, rất dễ sụt lở, vô cùng nguy hiểm. Buôn bán ở chốn ấy là phải đánh cược cả tính mạng của mình với thần sông, hà bá. Vất vả nhọc nhằn là thế mà bà Tú đâu chỉ phải đối mặt ngày một ngày hai, trái lại, kéo dài quanh năm suốt tháng, không ngừng nghỉ.
Bà Tú không chỉ bươn chải nhất thời, chờ chồng hiển đạt. Bà phải chấp nhận bươn chải cả đời, dường như nó đã trở thành định mệnh của bà Tú. Có thể thấy, thơ trước là sự, sau là tình. Ẩn sau câu thơ tái hiện cuộc sống buôn bán nhọc nhằn vất vả của bà Tú là ánh mắt dõi theo, ánh mắt lo lắng đầy xót thương của ông Tú. Niềm thương vợ dâng lên xúc động từ những vần thơ đầu tiên,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Vì sao bà Tú phải lăn xả vào nơi thương trường – nơi vốn được coi là chiến trường, bất chấp cả gian nguy? Chỉ có thể lí giải điều này bằng trách nghiệm tình yêu thương với chồng với con của bà Tú:
Thế là bà Tú phải chạy chợ kiếm ăn cho bảy người cả thảy. Một bên là năm đứa con thơ dại, một bên là đức ông chồng dài lưng tốn vải, gánh nặng đè hết lên vai bà Tú. Hai chữ “nuôi đủ” chứa nhiều hàm nghĩa ý vị mà sâu xa. “Nuôi đủ” là vừa đủ không dư giả, bà Tú phải chắt chiu, bòn mót, dành dụm từng đồng, từng hào mới vừa đủ chi tiêu. Hai chữ “nuôi đủ” cũng chất chứa bao nỗi vất vả, cực nhọc, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Cách nói “năm con với một chồng” giản dị ẩn chứa ý vị, sâu sa.
Trong cách nói này, Tú Xương đã hạ mình xuống hàng con, nhân lên nhiều lần công ơn to lớn của bà Tú. Từng câu từng chữ như chan chứa nỗi niềm biết ơn của bà Tú
Với đề bài Cảm nhận 2 câu đầu bài thơ Thương vợ bao gồm đầy đủ dàn ý chung và bài văn tham khảo, các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài văn cảm nhận chi tiết, độc đáo và ấn tượng.
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão
Tham khảo những bài văn mẫu hay nhất cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, qua đó cảm nhận niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng.
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão.
-/-
Hướng dẫn làm bài cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
1. Phân tích đề
– Yêu cầu đề bài: Dựa vào các chi tiết trong tác phẩm để bày tỏ cảm xúc, qua đó rút ra ý nghĩa của của bài thơ và tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
– Đối tượng làm bài: bài thơ Tỏ lòng
– Phương pháp làm bài: phân tích, cảm nhận
2. Các luận điểm chính cần triển khai
Luận điểm 1: Vẻ đẹp hào hùng của con người thời Trần
Luận điểm 2: Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả và bài thơ Tỏ lòng, khái quát những suy nghĩ, cảm nhận về tác phẩm
II. Thân bài 1. Vẻ đẹp hào hùng của con người thời Trần a. Vẻ đẹp người anh hùng vệ quốc
– Tư thế: “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo
+ Ngọn giáo: Là vũ khí chiến đấu của quân đội thời trước
+ Tay cầm ngang ngọn giáo: thể hiện sự chủ động, tự tin
+ Bản dịch thơ là “múa giáo”: cách dịch mang tính hình ảnh, hoa mĩ, phù hợp với vần nhịp nhưng chỉ thể hiện được hành động phô trương, biểu diễn bên ngoài, không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong. Cách dịch không thoát ý.
→ Tư thế chủ động, tự tin, vững trãi đầy kiên cường, hiên ngang, hào hùng, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng
– Tầm vóc
+ Không gian: “Giang sơn” – sông nước, non sông, tổ quốc
Không gian vũ trụ rộng lớn, kì vĩ, rợn ngợp. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua không gian vũ trụ rộng lớn
+ Thời gian: “kháp kỉ thu”: Con số ước lệ tượng trưng cho thời gian dài, vô tận
→ Khẳng định tầm vóc lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn át cả không gian và thời gian của người anh hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt.
b. Vẻ đẹp sức mạnh của quân đội nhà Trần.
– Tiềm lực quân đội: “Tam quân” – ba quân tiền quân, trung quân, hậu quân: Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự của cả dân tộc.
→ Tiềm lực quân đội mạnh mẽ, vững vàng
– Khí thế đội quân: Hình ảnh so sánh tăng tiến với hai cấp độ
+ Cấp độ một: “Tam quân” được so sánh với “tì hổ”: Cụ thể hóa sức mạnh của đội quân. Hổ báo là loài mãnh thú, chúa rừng là nỗi khiếp đảm của loài vật khác thì tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù
+ Cấp độ hai: Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu, cả hai cách đều đúng:
(1) Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu
(2) Khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu
→ Khí thế dũng mãnh, hào dùng ngút trời, tinh thần “sát thát” của quân đội nhà Trần được cụ thể hóa bằng những hình ảnh ước lệ.
⇒ Hai câu thơ đầu mang âm hưởng của niềm tự hào mạnh mẽ, đó là biểu hiện của lòng yêu nước.
⇒ Qua hai câu thơ khiến ta thêm yêu và hiểu hơn về sức mạnh và tinh thần chiến đấu, ý chí chiến bại và phẩm chất anh hùng của quân đội nhà Trần. Từ đó có những suy nghĩ và hành động đúng đắn xứng đáng với cha ông.
2. Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả a. Món nợ công danh
– Chí nam nhi: Làm trai phải có ý chí nam nhi, xông pha, gánh vác.
– Nợ công danh: Theo quan niệm Nho gia, đây là món nợ mà một kẻ làm trai sinh ra đã phải có trách nhiệm trả. Nó bao gồm hai phương diện lập công và lập danh. Khi hoàn thành hai nhiệm vụ này mới được xem là trả xong món nợ.
→ Trân trọng sự ý thức, trách nhiệm về việc hoàn trả món nợ công danh của tác giả.
b. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão.
– “Thẹn” là trạng thái xấu hổ, ngại ngùng khi thấy chưa bằng người khác
– “Thuyết Vũ Hầu”: Điển tích Trung Quốc nói về một con người tài năng, mưu chước, hết lòng báo đáp công ơn của chủ tướng, lập được công danh sự nghiệp lớn.
– Phạm Ngũ Lão cũng là một trang nam nhi hết lòng vì nước, cả công lao và danh tiếng đều vang xa. Vậy mà ông vẫn thẹn vì chưa báo đáp được hết ơn chiêu mộ của Trần Quốc Tuấn, chưa tận tâm tận lực trả hết món nợ công danh.
→ Đây là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Thẹn không làm hạ thấp nhân cách mà trái lại làm cho nhân cách cao thượng hơn
→ Thể hiện ý thức muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho dân tộc. Đồng thời đánh thức ý thức làm người và chí làm trai cho nam nhi đời Trần.
⇒ Trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của người anh hùng Phạm Ngũ Lão
⇒ Rút ra bài học: Sống phải có ước mơ, hoài bão. Phải quyết tâm và cố gắng hết sức để thực hiện ước mơ ấy dù phải trải qua những khó khăn, thử thách.
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Trình bày những cảm nhận chung về bài thơ: Cảm thức chủ đạo là lòng tự hào và niềm kính yêu với cha ông. Nhận thức và hành động của bản thân trong hiện tại và tương lai.
4. Sơ đồ tư duy
Hoàn cảnh sáng tác Tỏ lòng
5. Kiến thức bổ sung
– Bài thơ được sáng tác sau chiến thắng quân Mông – Nguyên của quân đội nhà Trần với hào khí Đông A ngút trời
– Bài thơ là loại thơ “nói chí tỏ lòng” qua bài thơ mà bày tỏ và thể hiện nỗi lòng cùng chí hướng của người viết.
Top 5 bài văn hay cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng – Bài mẫu 1
Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
“Thuyền bè muôn đội Tinh kỳ phấp phới Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
(Bạch Đằng giang phú)
“Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
” Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng – Bài mẫu 2:
Trong lịch sử văn học của Việt Nam, Phạm Ngũ Lão chỉ để lại vỏn vẹn có hai bài thơ nhưng tên tuổi của ông vẫn luôn được sánh ngang những tác giả như danh tiếng nhất của văn học thời Trần – dòng văn học yêu nước. Bài thơ Tỏ lòng là một minh chứng tiêu biểu cho quy luật sống còn của văn chương nghệ thuật xưa nay: “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (quý tinh túy, không có nhiều).
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”
Hai câu thơ đầu đã thể hiện suất sắc vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao và kỳ vĩ:
“Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.”
Dịch:
Hai chữ “múa giáo” trong lời dịch chưa thực sự thể hiện được xuất sắc hai từ “hoành sóc” của câu thơ chữ hán. Câu thơ nguyên tác đã dựng lên hình ảnh một con người cầm ngang ngọn giáo mà từ đó trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như có thể đo được chiều dài của non sông. Con người xuất hiện với một tư thế vô cùng hiên ngang, mang tầm vóc lớn lao, sánh ngang với vũ trụ. Con người kỳ vĩ ấy thậm chí còn như áp cả không gian bao la. Hành động phi thường giữa khoảng trời đất: “khí mạnh nuốt trôi trâu”, không hề mệt mỏi: “trải mấy thu” tính cho hình ảnh của con người vốn đã kỳ vĩ này lại càng kỳ vĩ hơn nữa. Không gian được mở ra theo chiều rộng của núi sông, mở lên theo chiều cao đến tận sao ngưu thăm thẳm.
Trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một hình ảnh vô cùng quen thuộc của văn chương cổ đại nhưng đã chắt lọc và kết tinh thành những áng thơ tuyệt cú. Sau này, trong bản dịch của Chinh phụ ngâm, ta thấy sự xuất hiện hình ảnh người chinh phụ: ” Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo “. Nhưng, so với hình ảnh của người tráng sĩ cầm ngọn giáo trấn giữ non sông, đất nước thì người chinh phụ lại không có được cái vẻ đẹp của vũ trụ, cái hào khí ôm trùm cả đất trời ấy.
Hình ảnh ba quân là hình ảnh nói về quân đội nhà Trần nhưng cũng là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh mạnh mẽ của dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh của ba quân vừa hướng tới sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần mang hào khí Đông A của dân tộc ta. Câu thơ khiến cho người đọc ấn tượng mạnh với sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn đến bất ngờ.
“Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian Thuyết vũ hầu.”
Hai câu thơ sau lại là dùng để thể hiện nỗi lòng của người tráng sĩ. Nỗi lòng đó là cái chí, cái tâm của người anh hùng:
Ở đây, chí làm trai mang tinh thần, tư tưởng tích cực của Nho giáo là lập công, lập danh, lập nghiệp. Quan niệm lập công danh đã trở thành một quan niệm lý tưởng để đánh giá nam nhi thời phong kiến xưa. Công danh được coi là món nợ đời mà kẻ làm trai phải trả. Trả xong nợ công danh tức là có nghĩa đã hoàn thành nhiệm vụ đối với đời, với dân, với nước. Chí làm trai thời bấy giờ khiến cho con người có thể từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ để thay vào đó là sự hy sinh, chiến đấu cho sự nghiệp lớn lao, cứu nước và giữ nước.
Điều đáng chú ý hơn nữa đó là bên cạnh cái chí của người anh hùng thì cái tâm còn sáng tỏ hơn nữa. Cái tâm ấy thể hiện qua nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão. Ông thẹn khi mình chưa có tài mưu lược lớn như Vũ hầu Gia Cát Lượng thời Hán để giúp cho Hán Vũ Đế cứu nước, cứu dân. Một cái nỗi thẹn nhưng không khiến cho người thẹn bị hạ thấp danh phẩm mà nó lại khiến cho ta càng trân trọng yêu thương phẩm giả tuyệt vời của thi nhân. Nỗi thẹn đặc biệt ấy vừa có giá trị nhân cách vừa cao cả, lớn lao.
Tỏ lòng vừa là nỗi lòng riêng của nhà thơ Phạm Ngũ Lão vừa là xu thế chung tất yếu của thời đại: sức mạnh, tinh thần quyết chiến, quyết thắng để giải cứu dân tộc, giải cứu nhân dân chất kẻ thù xâm lược tàn ác. Với bút pháp nghệ thuật hoành tráng, bài thơ đã thể hiện được suất sắc hào khí của thời đại Đông A – một trong những thời đại hào hùng nhất, vẻ vang nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng – Bài mẫu 3:
Hòa chung cùng khí thế chiến đấu hào hùng, oanh liệt cùng với biết bao công trạng lẫy lừng của những vị tướng tài ba, Phạm Ngũ Lão là một trong những vị danh tướng được muôn đời mến mộ. Ông còn là một nhà thi sĩ xuất sắc của nền văn học Việt nam, nổi bật trong số ấy là bài thơ . Bằng tình yêu nước thương dân và khát vọng được cống hiến với sự nghiệp của đất nước, những tư tưởng tình cảm đấy đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn trong tác phẩm Tỏ lòng.
“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. “
Tỏ lòng là một lời tâm sự của nhà thơ về những khát khao, hi vọng của một đấng nam nhi sống trên đời. Qua đó, tác giả đã thể hiện sự yêu mến, lòng tự hào của những người lính chiến đấu của quân đội nhà Trần. Mở đầu bài thơ, ta đã thấy hình ảnh của danh tướng Phạm Ngũ Lão hiện lên thật oai hùng biết bao:
“Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Câu thơ đầu tiên là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ mang tầm vóc to lớn của cả giang sơn. “Hoành sóc” tức chỉ những người anh hùng tay cầm ngang ngọn giáo tung hoành ngang dọc khắp muôn nơi. Họ đã kiên cường chiến đấu muôn nẻo của chốn giang sơn đất nước này, không quản thời gian mệt mỏi suốt bao “kỷ thu”. Câu thơ mang cả chiều dài của không gian và thời gian vào từng câu chữ. Nó càng thể hiện được tư thế của người chiến sĩ thuở “Bình Nguyên” khi ra trận chiến đấu. Trong trận chiến ấy ta còn thấy được sự đoàn kết sức mạnh của ba quân kể có thể chiến thắng được giặc thù. Tác giả dùng hình ảnh “nuốt trôi trâu” tức là những kẻ thù giặc, tuy hung hăng to lớn nhưng cũng không khiến sức mạnh của quân ta bị lung lay. Hình ảnh ẩn dụ so sánh ấy quả thực vô cùng độc đáo, để biểu hiện vị thế không bao giờ bị khuất phục của đội quân ta mà còn khơi nguồn cảm hứng, tự hào của muôn dân với những cống hiến của những vị danh hùng thời ấy.
“Đã có tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông”
Một người “nam nhi” khi quyết tâm được ra trận luôn mang trong mình một tâm thế chiến đấu rằng: luôn phải chiến đấu hết mình không quản ngại gian khó để lập được chiến công, giành được chiến thắng cho dân tộc. Khát vọng ấy là khát vọng chung của tất cả những đấng nam nhi thời bấy giờ. Tư tưởng “làm trai cho đáng nên trai”, những sứ mệnh trách nhiệm đang được giao trên đôi vai của họ về sự nghiệp giải phóng đất nước là mục tiêu sống của những người lính chiến đấu ấy. Họ mơ ước và tự hào về những chiến công oanh liệt của mình. Sẽ thật vui sướng, hạnh phúc biết bao nhiêu khi tên tuổi của mình được sánh vai cùng với anh hùng Vũ Hầu Gia Cát lương. Nhân đây, Phạm Ngũ Lão đã nhắc tới tài năng của Vũ Hầu như một tấm gương, điển tích điển cố mà muôn đời cần noi gương. Tác giả muốn nhắc nhở những tướng sĩ cần phải luôn trau dồi học tập, rèn luyện lòng dũng cảm và không bao giờ được ngủ quên trên chiến thắng. Có như vậy, tên tuổi của họ mới không bị hổ thẹn với những thời tuyên thệ như trong thơ của Nguyễn Công Trứ:
Tức đã sinh ra trên thế gian này, nhất định phải được cống hiến, ghi danh với non sông để không làm hổ thẹn với đấng sinh thành, với vua cha. Vậy nên khi nghe thuyết kể về Vũ hầu, thì những công lao mà Phạm Ngũ Lão đã cống hiến vẫn còn khiến tác giả cảm thấy e thẹn.
Bài thơ “Tỏ lòng” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, từng lời thơ như một lời khẳng định hào hùng, đanh thép về ý chí chiến đấu và khát vọng cống hiến của tác giả đối với đời. Xuyên suốt bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã bộc bạch những nỗi lo lắng và mong muốn được phục vụ đất nước, thật khiến cho người đọc cảm thấy khâm phục biết bao nhiêu.
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng – Bài mẫu 4
Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng
Tỏ lòng là bài thơ nói về chí làm trai theo quan niệm Nho giáo xưa. Bài thơ đã xây dựng nên một hình tượng đẹp về người anh hùng thời loạn: một tráng sĩ hiên ngang tay cắp ngang ngọn giáo, đánh Đông dẹp Bắc để lập công danh. Bài thơ khiến ta nhớ đến bài ca dao:
Đã sinh ra ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông
Đó là tiêu chuẩn lí tưởng của người đàn ông trong bất cứ thời đại nào. Trong thời loạn, chí khí ấy lại càng cần thiết. Phạm Ngũ Lão đã hình tượng hoá quan niệm của Nho gia về đấng nam nhi. Đây là một quan niệm đúng đắn và cao đẹp. Là con người, dù là đàn ông hay đàn bà, dù là già hay trẻ đều phải có trách nhiệm với đất nước, với quê hương, với cộng đồng, huống chi là người tráng sĩ sinh ra trong thời loạn. Họ phải biết mang sức lực, tài trí của mình ra giúp dân, giúp nước, bảo vệ sự ổn định của xã hội. Với những bậc quân tử xưa, đền nợ nước, báo ơn vua là lí tưởng và mục đích sống của họ. Như Nguyễn Công Trứ từng nói:
Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển rời Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thủa há không ai?
Nếu họ không thực hiện được con đường công danh ấy, họ sẽ cảm thấy hổ thẹn với mọi người. Cả cuộc đời người quân tử chỉ có một lí tưởng duy nhất để theo đuổi đó là lập công danh. Con đường mà Nho giáo đã vạch sẵn cho tất cả các đấng nam nhi là “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tư tưởng này đã trở thành một động lực thôi thúc các nhà Nho phát huy tài trí của mình ra giúp nước. Nhà Nho tiến bộ của thế kỉ XX – Phan Bội Châu – cũng đã từng thể hiện một cách hùng hồn và đầy nhiệt huyết cái chí khí ấy của người anh hùng thời loạn:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Tư tưởng ấy đã làm nên một hình tượng đẹp thể hiện khát vọng cứu nước trong văn học Việt Nam:
Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đất nước ta đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Một đất nước nhỏ bé luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược nên ý thức giữ nước đã trở thành ý thức có tính chất bản năng của mỗi người dân. Vì thế mà hình tượng đẹp nhất về người anh hùng bao giờ cũng là người anh hùng thời loạn. Trong đó hình tượng người tráng sĩ trong Tỏ lòng là một hình tượng có vẻ đẹp lí tưởng, bởi thời kì lịch sử ấy, nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông đã viết lên những trang sử vô cùng chói lọi trong thiên sử chống ngoại xâm của dân tộc ta… Sau người tráng sĩ ấy còn biết bao hình tượng đẹp nữa, trong đó không thể không kể đến những anh bộ đội cụ Hồ, những anh vệ quốc quân trong kháng chiến chống Pháp, những anh giải phóng quân – chàng Thạch Sanh của thế kỉ XX – trong kháng chiến chống Mĩ…
Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
Người anh hùng với lí tưởng cao đẹp đã từng đánh Đông dẹp Bắc, từng làm nên cái khí thế “nuốt sao Ngưu” dũng mãnh ấy, khi nhìn lại sự nghiệp của mình vẫn mang những niềm trăn trở day dứt:
Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng – Bài mẫu 5
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần nổi tiếng văn võ song toàn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược, Phạm Ngũ Lão dưới trướng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại. Tuy nhiên nhắc đến Phạm Ngũ Lão, người ta không chỉ nhớ đến ông là một võ tướng mà còn biết đến ông như một nhà thơ. Trong đó, Thuật Hoài (Tỏ lòng) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Bài thơ Thuật hoài được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Qua bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời, nỗi lòng mong muốn được cống hiến cho đất nước, chủ nghĩa anh hùng yêu nước và khí thế của quân dân nhà Trần lúc bấy giờ.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã tập trung diễn tả vẻ đẹp của người tráng sĩ Đông A:
Bằng cách miêu tả trực tiếp, Phạm Ngũ Lão đã xây dựng lên con người mang vẻ đẹp của thời đại: gân guốc, mãnh liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh đang xả thân vì đất nước.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” theo dịch nghĩa tức là “Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu”. So với bản dịch thơ “Múa giáo non sông trải mấy thu” thì bản dịch thơ chưa lột tả hết vẻ kiêu hùng trong tư thế của người lính đứng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Dáng vẻ cầm ngang ngọn giáo tạo tư thế vững chãi, hiên ngang như một bức tượng đồng, uy nghi vững chãi. Còn “múa giáo” lại mang lại vẻ rộn ràng, chuyển động. Ý thơ “cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông” phác họa lên hình ảnh người tráng sĩ sánh ngang cùng vũ trụ, nổi lên trên giang sơn, sông núi, sừng sững vững chãi suốt mấy mươi năm. Có thể nói, câu thơ đầu tiên đã khắc họa thành công bức tượng đài người tráng sĩ bảo vệ đất nước, một vẻ đẹp hiên ngang tiêu biểu cho hào khí thời Trần.
Tiếp theo, câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”, ở đây tác giả sử dụng thành ngữ “khí thôn ngưu đẩu” để thể hiện khí thế chiến đấu không gì có thể ngăn cản được của quân dân nhà Trần. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật thậm xưng để đem sức mạnh của quân dân ta sánh ngang, thậm chí vượt qua được cả sức mạnh của vũ trụ, át cả ngôi sao sáng trên trời. Câu thơ có sử dụng biện pháp thậm xưng để làm nổi bật được vẻ đẹp của người dũng sĩ nhà Trần, nâng tầm vẻ đẹp đó sánh ngang cùng với vũ trụ.
Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Xuất thân là một danh tướng dày dạn kinh nghiệm, sau trở thành một danh tướng khi còn rất trẻ. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chàng tráng sĩ khác, mang trong mình lí tưởng cao đẹp, bảo vệ đất nước, “trung quân ái quốc” và khát khao được ghi tên mình vào sử sách “lưu danh hậu thế”. Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão cũng là tư tưởng lớn ta dễ bắt gặp trong thơ văn cổ, như bài Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ có nói: ” Làm trai đứng ở trong trời đất? Phải có danh gì với núi sông“. Bởi vì khát vọng lớn lao ấy nên khi chưa trả hết nợ công danh thì sẽ tự lấy làm hổ thẹn:
Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Dịch thơ:
Vũ Hầu tức là Khổng Minh, một vị quân sự tài ba thời Tam Quốc nhiều phen lập được chiến công lớn khiến sử sách ngàn đời sau còn vang danh.
Phạm Ngũ Lão đã nhìn vào những đấng anh hùng, kiệt tướng lớn trong lịch sử, soi mình vào đó để phấn đấu. Lấy chữ “thẹn” làm động lực để tiếp tục tiến lên, nhìn gương người đi trước mà noi theo. Câu thơ thể hiện niềm khát vọng của tác giả nói riêng và những chàng trai thời bấy giờ nói chung, đó chính là khát vọng được cống hiến, được góp phần bảo vệ non sông gấm vóc. Chính khát vọng này đã tạo nên hào khí Đông A lẫy lừng trong lịch sử.
của Phạm Ngũ Lão tuy chỉ có bốn câu thơ ngắn gọn nhưng hàm súc, lời thơ đanh thép, sử dụng hình ảnh độc đáo. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang, đồng thời nêu cao tinh thần đem sức mình dâng hiến, bảo vệ tổ quốc. Thuật Hoài không chỉ là “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão nói riêng mà còn là tinh thần, ý chí đại diện cho cả một dân tộc, cả thời đại nhà Trần nói chung. Chính những tráng sĩ, những danh tướng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên những chiến công hiển hách, chiến thắng quân Nguyên Mông bảo vệ tổ quốc. Trải qua nhiều thế kỷ, nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Thuật Hoài, ta vẫn có thể thấy được những âm vang, hào hùng của cả một thời đại trong lịch sử.
Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương.
Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đối thay cá nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng. Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thông, chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự trách bán thân về trách nhiệm của người chồng.
Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công việc làm ăn của vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng.
Bà Tú buôn bán ấy là công việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Mom sông là không gian làm ăn của bà. Đó là chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nào. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sông, thời gian quanh năm tô đậm hơn hình ảnh của bà Tú tảo tần, ngược xuôi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến bà Tú càng rõ nét hơn.
Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình, còn ông chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai miệng ăn. Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm no, áo đủ mặc mà còn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên đôi vai bà Tú. Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc làm ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sông êm ả bước vào dòng đời xô bồ để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hoàn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm.
Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm thông, chia sẻ:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Công việc của bà đến đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bà Tú lặn lội ngược xuôi lúc một mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi vã giành giật ngay trên sông với những chuyến đò đông khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bà là vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất gay go của cuộc mua bán. Thương trường là chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau miếng ăn, té ra bà Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca:
Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Con cò xưa và thân cò dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cò đâu, gầy lêu khêu, bước lừng thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái đơn độc, lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đò đông, nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho chồng, con. Ông Tú thấu hiểu điều ấy. Và ông đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi niềm chất chứa tâm can. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca ngợi bà vì bà hết lòng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lòng ông: Tự trách mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng. Bà Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nào và trong tâm chắc cũng được an ủi, động viên.
Khó nhọc, gian nan là vậy nhưng bà Tú không một lời than vãn. Ngày tháng, công việc cứ trôi qua im lặng như chính cuộc đời bà:
Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công.
Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ông hoặc bà đều được. Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà. Dùng lối nói dân gian vợ chồng là duyên là nợ. Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà như vậy vừa là duyên, vừa là nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ là phần nhiều, số phận là thế thì đành chấp nhận. Dám quản công tức không dám nề hà, không dám kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vào cái số phận làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành phận cũng khiến cho cảm xúc bị dồn nén nhiều hơn. Hẳn bà Tú không ít lần bực mình, thấy đời sao quá bất công, muốn phản kháng nhưng bà đã dằn lòng an phận, chấp nhận im lặng đến nhẫn nhục, cam chịu. Nước mắt bà chảy ngược vào trong, ‘bà giữ chặt lòng mình, không muốn cho ai biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngán 2/2/3 thế hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn với công việc không bao giờ ngừng nghỉ. Đến đây, Tú Xương nhập hẳn mình vào vợ để lắng nghe từng nỗi niềm u uẩn của bà. Ẩn đằng sau ấy là bao nỗi niềm của ông, một người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mà không giúp được gi? Câu thơ toát lên ý thương vợ, tự trách rất sâu sắc.
Hai câu cuối, tình cảm như được bộc phát mạnh mẽ, không phải lời tâm tình nhẹ nhàng như trước mà là tiếng chửi độc:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không.
Tiếng chửi không phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bà chửi để gánh nặng lòng ông được vơi bớt, chi ít vì bà coi ông khác lũ con. Sự dồn nén, bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám, vô lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xuôi vất vả còn xứng là chồng không? Ông tụ kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất đến mây bà Tú cũng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bà đâu cần, có cũng như không. Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ biến, thường diễn ra. Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện, danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà hướng người đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và niềm đau khổ của người vợ.
Bài thơ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài thơ giàu cám xúc, chân thực như vậy. Chất trữ tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn căm ghét thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi đến những người chồng bức thông điệp: hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ.
chúng tôi
Bạn đang đọc nội dung bài viết Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Thương Vợ trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!