Đề Xuất 6/2023 # Cách Viết Báo Cáo Khoa Học Cho Các Tập San Khoa Học Quốc Tế # Top 10 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 6/2023 # Cách Viết Báo Cáo Khoa Học Cho Các Tập San Khoa Học Quốc Tế # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Cách Viết Báo Cáo Khoa Học Cho Các Tập San Khoa Học Quốc Tế mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Cách viết báo cáo khoa học cho các tập san khoa học quốc tế

Mới đây trên Tạp chí Hoạt động Khoa học, tác giả Phạm Duy Hiển nêu vấn đề về sự có mặt rất khiêm tốn của các nghiên cứu khoa học Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế. Đây là một ưu tư rất chính đáng. Trong ngành y sinh học, trong vòng 40 năm qua, số lượng bài báo từ các nhà khoa học ở Việt Nam chỉ trên dưới con số 300. Con số này cực kì khiêm tốn nếu so với 5.000 từ Thái Lan hay trên 20.000 từ Singapore. Trong thực tế, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị và hấp dẫn, nhưng ít khi nào có mặt trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là tại sao có tình trạng này, và làm sao chúng ta có thể cải thiện tình thế.

Qua kinh nghiệm cá nhân và tiếp xúc với đồng nghiệp trong nước, người viết bài này tin rằng một phần của vấn đề là các nhà khoa học nước ta thiếu kĩ năng phân tích dữ kiện và thiếu kĩ năng thông tin (communication skill). Về phân tích số liệu, sẽ bàn trong một dịp khác, ở đây tác giả bài viết chỉ bàn đến vấn đề thông tin, mà cụ thể là soạn một bài báo khoa học.

Đại đa số các tập san khoa học quốc tế sử dụng tiếng Anh để truyền đạt thông tin. Một phần không nhỏ các nhà khoa học nước ta chưa quen với tiếng Anh, và đó là một trở ngại lớn. Nhưng ngay cả trong số các nhà khoa học thạo tiếng Anh, thì họ lại thiếu kĩ năng viết báo khoa học. Bài viết này muốn góp một phần nhỏ trong nỗ lực cải thiện tình thế đó, bằng cách chia sẻ một số kinh nghiệm viết báo cáo khoa học với các đồng nghiệp và nhà nghiên cứu trẻ. Bài viết này là một tóm lược của một tài liệu bằng tiếng Anh dài hơn dùng để giảng dạy cho các nghiên cứu sinh ở Mỹ và Úc.

****

Tại sao phải công bố báo cáo khoa học?

Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là một bản báo cáo về một công trình nghiên cứu, mà còn là một đóng góp cho kho tàng tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào thông tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các nhà khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Đối với cá nhân nhà khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế là một “currency” (đơn vị tiền tệ). Đó là những viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới khoa bảng. Tại các đại học Tây phương, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư. Vì thế công bố báo cáo khoa học, đối với giới khoa bảng Tây phương, là một việc làm ưu tiên hàng đầu của họ. Chính vì thế mà các đại học Tây phương có cái văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay là tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa bảng không có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế, ban giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời câu hỏi “tại sao”. Nếu có lí do chính đáng thì còn giữ chức vụ; nếu không có lí do chính đáng thì có nguy cơ mất chức như bỡn.

Nói tóm lại, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế (không chỉ ở trong nước) là một việc làm chính yếu, một nghĩa vụ, và một điều kiện để tồn tại của một nhà khoa học. Nhưng từ lúc tiến hành nghiên cứu, thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một quá trình gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm sao đảm bảo báo cáo được đăng trên một tập san khoa học có uy tín trên thế giới. Vì thế, các nhà khoa học cần phải đặc biết chú ý đến việc soạn thảo một báo cáo khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bài viết này mách bảo một cách thân mật những “mẹo” và kĩ năng để đạt tiêu chuẩn đó.

 

Báo cáo khoa học: khổ hạnh  

Mỗi bài báo khoa học là một công trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa hạnh phúc. Đau khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một bài báo, và hạnh phúc khi nhìn thấy bài báo được công bố trên một tập san có nhiều đồng nghiệp đọc và chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả phải phấn đấu làm sao để giữ sự cân bằng giữa tính trong sáng nhưng nội dung phải đầy đủ. Bài báo phải làm sao hấp dẫn người đọc và để người đọc “nhập cuộc”. Bài báo phải được viết bằng một văn phong cực kì súc tích, nhưng phải đầy đủ. Đó là những yêu cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.

Nếu không tiếp cận vấn đề một cách có việc hệ thống, tất cả những nỗ lực cho một bài báo khoa học có thể trở nên vô dụng, thậm chí đem lại ảnh hưởng xấu vì một công trình nghiên cứu sẽ không có cơ hội xuất hiện trên các tập san chuyên môn. Mặc dù ở các nước phương Tây, người ta đã có nhiều bài viết chỉ dẫn – thậm chí cả sách dạy – cách viết một bài báo khoa học, nhưng ở nước ta, hình như vẫn chưa có một tài liệu chỉ dẫn như thế. Bài viết này, vì thế, được soạn ra nhằm mục đích duy nhất là cung cấp cho bạn đọc những chỉ dẫn đơn giản và thực tế để sao cho bạn đọc có thể tự mình viết một bài báo khoa học đạt yêu cầu của các tập san khoa học quốc tế.

 

Vạn sự khởi đầu nan …

Viết một bài báo tốt là một việc làm không đơn giản chút nào, nếu không muốn nói là phức tạp.  Nó đòi hỏi người viết phải sáng tạo và suy tưởng… trong lặng lẽ. Con đường dẫn đến một sản phẩm hoàn hảo không bao giờ là một con đường thẳng, mà là một con đường với nhiều ngõ ngách, nhiều đường cùng, và nhiều chông gai. Nói một cách ngắn gọn, viết cần phải có thời gian. Thành ra, cách tốt nhất là phải khởi công viết càng sớm càng tốt, đừng bao giờ để cho đến giai đoạn cuối của nghiên cứu mới viết.

Tác giả có thể viết ngay những phần cần viết ra của bài báo trong khi công trình nghiên cứu vẫn còn tiến hành. Phát họa ra phần dẫn nhập

(introduction) ngay từ khi công trình nghiên cứu đang được thai nghén. Viết phần phương pháp (methods) ngay trong khi công trình nghiên cứu còn dở dang. Làm đến đâu, viết ngay đến đó. Sau cùng là một phát họa những biểu đồ, bản thống kê cần phải có trong bài báo.

Viết ra những ý tưởng và phương pháp sớm giúp cho nhà nghiên cứu rất nhiều trong những lần sửa chữa sau này. Chẳng hạn như làm sáng tỏ động cơ và lí do nghiên cứu trong phần dẫn nhập giúp cho nhà nghiên cứu nhận ra bối cảnh mà công trình nghiên cứu có thể đóng vai trò. Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho nhà nghiên cứu khỏi phải tốn công xây dựng lại những bước đi, những thủ tục mà công trình nghiên cứu đã hoàn tất. Việc phát thảo ra những biểu đồ và bản số liệu giúp cho nhà nghiên cứu tập trung vào nỗ lực phân tích dữ kiện. Và quan trọng hơn hết, khi ngồi xuống viết, tự việc làm đó, tạo cơ hội cho

(

hay nói đúng hơn là bắt buộc

)

nhà nghiên cứu phải suy nghĩ nghiêm túc về việc làm của mình.

Một điều quan trọng khác là tác giả cần phải bỏ ra một thời gian tịnh tâm suy nghĩ về cái thông điệp của công trình nghiên cứu cho cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả nên chịu khó viết ra những điểm chính nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: tại sao mình làm những gì mình đã làm; thực tế mình đã làm gì; mình phát hiện điều gì mới lạ; và những điều này có ý nghĩa gì?

 

Tập trung vào những thông tin chính

Mặc dù thành phần độc giả của các tập san khoa học có thể rất đa dạng, một đặc tính mà giới chuyên môn đều có chung là: bận rộn. Giới khoa học gia, bác sĩ, kĩ sư, nhà quản lí, lãnh đạo… có lẽ chỉ nhìn qua bài báo khoa học một cách nhanh chóng, chứ ít khi nào có thì giờ nghiền ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần lớn tác giả nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể không nghĩ đến khi đặt bút xuống soạn bài báo khoa học. Do đó, tác giả nên tự đặt mình vào vai trò của người đọc và suy nghĩ như người đọc bằng cách chú ý đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu: tựa đề bài báo, bản tóm tắt (abstract), những bản số liệu, và biểu đồ.

 

Tựa đề và tóm tắt

 

Bảng số liệu và biểu đồ

Yếu tố thị giác rất quan trọng. Nếu người đọc quyết định đọc bài báo (sau khi đã xem qua tựa đề và bản tóm tắt), họ sẽ tiếp tục xem đến các bảng thống kê và biểu đồ. Các bảng thống kê số liệu thường được dùng để trình bày những số liệu mang tính trang trọng, tính chính xác cao, tính chính thức. Các bảng thống kê có thể dùng để tổng hợp và so sánh số liệu của các công trình nghiên cứu trong quá khứ, để giải thích mối liên hệ giữa các nhân tố trong công trình nghiên cứu, hay trình bày những câu hỏi đã được sử dụng trong công trình nghiên cứu.

Người Trung Hoa từng nói “Một biểu đồ có giá trị bằng một vạn chữ viết”

.

Mục đích của biểu đồ là cung cấp một ấn tượng về phát hiện chính của công trình nghiên cứu. Biểu đồ có khi được dùng làm tài liệu giảng dạy. Vì thế biểu đồ là một phương tiện hữu hiệu nhất để nhấn mạnh thông điệp của bài báo. Biểu đồ thường được sử dụng để thể hiện xu hướng và kết quả cho từng nhóm, nhưng cũng có thể dùng để trình bày dữ kiện một cách gọn gàng. Các biểu đồ dễ hiểu, nội dung phong phú là những phương tiện vô giá. Do đó, nhà nghiên cứu cần phải suy nghĩ một cách sáng tạo cách thể hiện số liệu quan trọng bằng biểu đồ.

 

Phát thảo một cách làm có hệ thống

Tiếp cận và phác họa cấu trúc của một bài báo trước khi đặt bút viết tạo điều kiện dễ dàng cho tác giả sau này. Bước đầu tiên đòi hỏi tác giả phải biết tập san mà mình muốn gửi bài báo, bởi vì mỗi tập san có những yêu cầu khác nhau về hình thức cũng như nội dung. Một khi đã xác định được tập san đối tượng, tác giả cần phải xem qua phong cách và hình thức bài báo mà tập san đó qui định. Đặc biệt là phải xem qua các bài báo đã được công bố trên tập san đó, như số lượng chữ là bao nhiêu, biểu đồ phải trình bảy như thế nào, bảng số liệu phải viết ra sao, trình bày phần tài liệu tham khảo theo cách gì, v.v… Phần lớn các tập san y khoa và sinh học đều tuân thủ theo các qui định được công bố trong tài liệu Uniform Requirements for Manuscripts Submitted to Biomedical Journals.

Có nhiều “chiến lược” để thu hút người đọc theo dõi bài báo của mình. Cách tốt nhất và hiệu quả nhất có lẽ là ngắn gọn. Không nên nhầm lẫn giữa sự phức tạp với tính tinh vi. Câu văn cần phải ngắn gọn, đơn giản, nhưng chính xác và trực tiếp đi thẳng vào vấn đề. Cũng cần phải nhận thức rằng có được một bài báo khúc chiết như thế không phải là điều dễ dàng chút nào – nó đòi hỏi nhiều thời gian và suy nghĩ.

 

Dẫn nhập

“Nhiệm vụ” thiết yếu nhất trong phần dẫn nhập là phải làm sao làm cho người đọc tiếp nhận bài báo và quan tâm đến kết quả của công trình nghiên cứu. Hơn nữa, phần dẫn nhập còn giúp cho người bình duyệt bài báo hay tổng biên tập tập san thẩm định tầm quan trọng của bài báo. Trong phần dẫn nhập, tác giả phải nói rõ tại sao công trình nghiên cứu ra đời và tại sao người đọc phải quan tâm đến công trình đó. Sơ đồ 1 sau đây phác họa cái khung cho phần dẫn nhập được viết với 3 đoạn văn.

Đọan văn thứ nhất mô tả một vấn đề chung hay yếu tố chung làm động cơ cho công trình nghiên cứu. Đặc biệt là câu văn đầu tiên phải “mạnh mẽ” và làm sao thu hút chú ý của người đọc. Đoạn văn thứ hai tập trung vào vấn đề cụ thể mà công trình nghiên cứu phải giải quyết. Trong đoạn văn này, tác giả có thể nêu ra những vấn đề mà người đọc có thể chưa từng biết qua. Đoạn văn thứ hai cũng cần nêu lên cái khoảng trống tri thức mà cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Đoạn văn thứ ba mô tả các mục tiêu của công trình nghiên cứu. Phần dẫn nhập phải được làm sao mà đọc đến đoạn thứ ba, người đọc cảm thấy háo hức và thiết tha đọc các phần kế tiếp của bài báo.

 

Sơ đồ 1: Khung bài cho phần dẫn nhập (3 đoạn văn)

Đoạn văn

Câu hỏi

Ví dụ

Ví dụ 1

Ví dụ 2

Ví dụ 3

1

Vấn đề chung là gì, tình hình hiện nay ra sao?

Loãng xương là một bệnh nghiêm trọng trong người có tuổi vì nó là nguyên nhân dẫn đến gãy xương.

Có nhiều bằng chứng cho thấy carotid endarterectomy có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim.

Tiểu đường thận (diabetic nephropathy) là nguyên nhân số một của bệnh thận vào giai đoạn cuối.

2

Vấn đề cụ thể là gì, và trong kho tàng tri thức còn khoảng trống nào?

Mật độ xương (BMD) là một yếu tố quan trọng trong việc chẩn đoán loãng xương trong người Âu Mĩ.  Tuy nhiên trong người Việt sự chính xác của BMD trong việc tiên đoán gãy xương vẫn chưa được nghiên cứu.

Mặc dù microalbumin được đề nghị dùng để truy tìm bệnh tiểu đường thận, nhưng phần lớn bác sĩ vẫn không tuân theo qui định chung này.

3

Thế thì công trình nghiên cứu này sẽ đóng góp gì ?

Nghiên cứu khả năng ứng dụng BMD trong người Việt hay một dân số khác sẽ giúp cho việc phát triển một tiêu chuẩn chẩn đoán mới.

Để giúp cho bác sĩ thẩm định lợi ích của carotid endarterectomy, chúng tôi tính toán số ca phẫu thuật cần thiết để ngăn ngừa một ca bệnh tim trong những điều kiện khác nhau.

Nhằm mục đích phát triển một phương pháp mới và đơn giản hơn cho việc chẩn đoán tiểu đường thận, chúng tôi ứng dụng một mô hình quyết định (decision making model) và phân tích hệ quả của thuật chữa trị ACE

 

Phương pháp

Có thể bài báo đề ra một phương pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng) xuất hiện nhiều lần trong bài báo. Tác giả nên suy nghĩ kĩ về những tên gọi này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ hiểu. Nên gọi phương pháp điều trị là gì? Phải sử dụng từ gì để mô tả chỉ tiêu của nghiên cứu? Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy trước khi viết cần phải liệt kê ra danh sách những từ hay sử dụng trong bài báo. Không có gì lẫn lộn và khó chịu người đọc hơn là dùng nhiều từ khác nhau để gọi một hiện tượng!

Một cấu trúc cứng nhắc sẽ làm cho phần phương pháp trở thành máy móc. Nhưng đó lại là cấu trúc mà các tập san y khoa đòi hỏi cho các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trial). Trong cấu trúc này, tác giả phải viết dưới các tiêu đề như khái quát, nơi làm nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng, chỉ tiêu chính của nghiên cứu, chỉ tiêu phụ, cách đo lường, phương pháp phân tích dữ kiện…

Trong các nghiên cứu khác, tác giả có thể tự mình sáng tạo ra những tiêu đề thích hợp với công trình nghiên cứu. Ngay cả nếu tác giả sau này phải xóa bỏ các tiêu đề này thì sự bố cục của chúng giúp ích cho tác giả rất nhiều. Có thể dùngmột biểu đồ như là một cách mô tả qui trình nghiên cứu (chẳng hạn như thiết kế, tuyển chọn bệnh nhân, và phân tích dữ kiện). Nếu cần, tác giả có thể thêm phần phụ lục để cung cấp chi tiết về phương pháp phân tích, mã (codes) dùng trong máy tính, hay phương pháp thu thập dữ kiện cùng phương pháp đo lường (đây là những phương pháp có thể giúp cho người duyệt bài hay người đọc có thể lặp lại thử nghiệm).

 

Kết quả

Phần kết quả phải được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tác giả phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát hiện gì?”

.

Cần phải phân biệt rõ đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số liệu, và những dữ kiện này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản. Những số liệu này phải trình bày sao cho lần lượt trả lời các mục đích mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.

     

Câu hỏi cần phải trả lời

Nội dung

Phát hiện chính là gì?

Phát biểu những phát hiện chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước đây.

Phát hiện đó có khả năng sai lầm không ?

Xem xét những yếu tố sau đây: thiếu khách quan trong đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối tượng ít? Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy đủ?  Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ? V.v…

Ý nghĩa của phát hiện là gì?

Đặt kết quả của nghiên cứu vào bối cảnh lớn hơn, và so sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận về cơ chế (nhưng không nên quá lời hay quá xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm trong khuôn khổ của dữ kiện thật).

Kết luận có phù hợp với dữ kiện hay không?

Kết luận phải rõ ràng, nhưng không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu kết quả cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi.

 

Hỗ trợ từ đồng nghiệp

Những bài báo khoa học có giá trị thường là những bài báo đã được xem xét và duyệt đi duyệt lại nhiều lần, kể cả những lần phản hồi (response) hay phản biện lại những phê bình của những người bình duyệt. Điều này đòi hỏi bài báo, trước khi gửi đi cho một tập san, phải được các đồng nghiệp nội bộ đọc và phê bình. Tác giả không nên ngần ngại tiếp nhận những phê bình gay gắt từ đồng nghiệp. Để làm việc này, tác giả cần phải có một danh sách những đồng nghiệp có thể duyệt bài. Những đồng nghiệp này không hẳn phải là những tên tuổi lớn như giáo sư, mà có thể là nghiên cứu sinh. Thật ra, các giáo sư ít khi nào có thì giờ đọc kĩ; chính các nghiên cứu sinh hay đồng nghiệp cấp thấp thường là những người có khả năng và có thì giờ chăm chú, có động cơ để cho ý kiến một cách nghiêm chỉnh. Có hai nhóm đồng nghiệp có thể làm người duyệt bài nội bộ:

* Những người bình duyệt chung, nhiệm vụ chính của họ là xem xét cách viết của tác giả có dễ hiểu hay không. Bất cứ ai, kể cả những người không cùng chuyên môn, cũng có thể là người duyệt bài trong nhóm này, nhưng người duyệt bài lí tưởng nhất là người có nỗ lực suy nghĩ cẩn thận.

* Những người bình duyệt có cùng chuyên môn, nhiệm vụ của họ là giúp tác giả chuẩn bị để đối phó với những người bình duyệt của tập san và ban biên tập. Trong nhóm này, tác giả cần một hay hai thành viên trong cùng chuyên môn và có khả năng “soi mói” chi tiết hay nêu ra những sai sót của bài báo hay công trình nghiên cứu (chẳng hạn như nghiên cứu có đúng phương pháp không, diễn dịch có logic không, kết luận có đi ra ngoài dữ kiện không …). Trong nhóm này, người duyệt lí tưởng là một người “khó tính ” sẵn sàng nói thẳng với tác giả những gì họ nghĩ, thậm chí không mấy có cảm tình với ý tưởng của tác giả.

 

Cải tiến

Muốn trở thành một tác giả khoa học tốt cần phải có thời gian.  Một bài báo khoa học thường nhắm vào một vấn đề hẹp. Nhưng tác giả phải có một cái nhìn rộng và lớn hơn khi đọc bài báo của mình. Cần phải đặt bài báo và kết quả nghiên cứu vào một bối cảnh lớn hơn để thấy thành quả ra sao hay những gì cần phải làm tiếp trong tương lai.

Sơ đồ 3

sau đây phác thảo vài cách tiếp cận để tác giả có thể tự mình cải tiến. Nhiều tác giả thiếu kiên nhẫn vì họ chỉ muốn gửi bài báo đi càng sớm càng tốt, nhưng đó không phải là một hành động có hiệu quả cao. Do đó, điều thứ nhất là không nên hấp tấp trong khi viết. Sau khi viết xong bản thảo, có thể để đó vài ngày hay vài tuần. Sau đó, đọc lại và xem xét những chi tiết nào cần thêm hay cần bỏ đi. Đọc đi đọc lại với một cái nhìn mới để xem có gì cần phải phân tích thêm hay không, hay cách diễn dịch số liệu có hợp lí hay không. Kiểm tra lại cách viết và các đoạn văn có ăn khớp với nhau hay không, ý tưởng có trôi chảy hay không …

Sau đó là xem xét đến những chi tiết. Hai điểm quan trọng cần phải để ý ở đây. Thứ nhất, kiểm tra tính nhất quán: cả số liệu hay dữ kiện và các chú thích phải nhất quán với văn bản, bảng thống kê, và biểu đồ. Thứ hai là loại bỏ những “nhiễu” – tức là những điểm lặp đi lặp lại hay những điểm làm cho người đọc sao lãng cái thông điệp chính trong bài báo. Có khi cần phải kiểm tra từng chữ một xem nó có thích hợp với mục đích của bài báo hay không. Tránh dùng những từ ngữ tối nghĩa, những biệt ngữ khó hiểu, hay những viết tắt mà người ngoài chuyên môn chưa quen biết.

Một bài báo thường phải qua bình duyệt từ ban biên tập của tập san. Nếu tập san cho tác giả cơ hội trả lời những phê bình này, đó là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên, việc trả lời những phê bình của ban biên tập không phải lúc nào cũng là việc làm thoải mái, dù sau khi phản biện thì bài báo sẽ tốt hơn. Trong khi trả lời phê bình, điều tối quan trọng là không nên có thái độ quá chống chế, hay quá công kích người phê bình. Tác giả có nhiệm vụ phải trả lời từng câu hỏi một, từng điểm phê bình một, và trả lời một cách lịch sự. Nếu tác giả không đồng ý với người bình duyệt, tác giả có quyền nói thẳng. Thông thường, sau khi trả lời bình duyệt, bài báo phải có sửa đổi, và tác giả phải thông báo cho ban biên tập biết những chỗ nào đã thay đổi và tại sao thay đổi.

Khoa học là một trường hoạt động khá bình đẳng. Công trình của tác giả có người khác bình duyệt, và tác giả cũng có cơ hội bình duyệt công trình của người khác. Thành ra, để giúp đỡ đồng nghiệp và để tự mình cải tiến, tác giả nên nhận lời bình duyệt công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp. Nếu tác giả cảm thấy học hỏi được một vài điều từ việc trả lời phê bình của người khác, tác giả cũng có thể học hỏi nhiều điều từ việc đọc và phê bình công trình của đồng nghiệp. Qua đọc và xem xét cẩn thận, tác giả sẽ cảm thấy mình trưởng thành và thoải mái với các nguyên lí và sự sắp xếp của các lí giải trong một bài báo khoa học. Làm người bình duyệt là một hình thức tự mình trao dồi kĩ năng nghiên cứu: nhận dạng nhầm lẫn của người khác cũng có nghĩa là nâng cao kĩ năng nhận dạng nhầm lẫn của chính mình.

Ai trong chúng ta cũng muốn là tác giả của những bài báo khoa học tốt, những bài báo mà chúng ta có thể tự hào, và hi vọng sẽ được lưu truyền rất lâu trong tương lai. Tuy nhiên, dù chúng ta có cẩn thận cách mấy, và bất kể bao nhiêu lần chúng ta đọc đi đọc lại, rà soát, xác suất bài báo có ít nhất là một sai lầm hay lỗi nhỏ đều rất cao. Một cá nhân rất khó mà phát hiện tất cả các lỗi lầm của chính mình. Điều đó có nghĩa là tác giả cần đồng nghiệp, những người đọc và phê bình một cách nghiêm túc và thành thật. Tác giả cần phải bỏ tính tự ái, và không nên sợ hãi trước những phê phán. Theo kinh nghiệm của người viết bài này, những phê phán của đồng nghiệp, dù lớn hay nhỏ, dù gay gắt hay thân thiện, lúc nào cũng giúp cho bài báo trở nên hoàn hảo hơn.

Ở phần đầu tôi đã nêu ra vài lí do tại sao cần phải công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế, ở đây tôi muốn nói thêm một lí do quan trọng hơn nữa. Đối với quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước ta. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án, nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn một câu nói của một người thông thái, Khổng Tử: “Nếu dùng ngôn ngữ không đúng, thì những gì được phát biểu sẽ bị hiểu sai; nếu những gì phát biểu bị hiểu sai, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực hiện được, đạo đức và nghệ thuật sẽ trở nên tồi tệ hơn”

.

Và tôi cũng có thể thêm rằng, nước nhà sẽ thiệt thòi hơn.

 

                                                

Sơ đồ 3:  Cải tiến

Cách tiếp cận căn bản

Chú thích

Cải tiến bài báo: Không hấp tấp; đọc và sửa lại liên tục.

   

·   Cần phải để dành thời gian, suy nghĩ lại, lĩnh hội vấn đề, đọc lại một lần nữa với một cách nhìn hoàn toàn mới

·   Xem xét lại cấu trúc bài báo; xem có phần nào thiếu nhất quán hay không; có mâu thuẫn trong lí giải hay không; xóa bỏ những phần lặp đi lặp lại.

Trả lời những phê bình của người duyệt bài

·   Trả lời từng điểm một, tuyệt đối không chối bỏ bất cứ điểm nào;

·   Phải lịch sự trong khi trả lời, không dùng những từ mang tính thách thức và tấn công cá nhân; nếu cần bất đồng ý kiến với người duyệt bài, cứ nói thẳng như thế;

·   Thông báo cho biên tạp biết những gì đã thay đổi trong bài báo và giải thích tại sao phải thay đổi.

 

Cải tiến kĩ năng phê bình công trình của người khác

·   Sẵn sàng phục vụ làm người bình duyệt bài cho các tập san khoa học;

·   Công bằng và vô tư trong việc phê bình;

·   Không duyệt bài nếu cảm thấy mình có mâu thuẫn quyền lợi cá nhân.

   

 Những điểm chính

+ Nên bắt đầu viết sớm trước khi hoàn tất công trình nghiên cứu.

+ Tập trung vào những gì mà người đọc cần đọc: tựa đề, tóm tắt, biểu đồ, bảng số liệu.

+ Cải tiến bài báo bằng cách yêu cầu giúp đỡ từ đồng nghiệp.

   

Trao đổi mạn đàm GS.TS. Nguyễn Văn Tuấn

Viện nghiên cứu y khoa Garvan

, Australia

Cách Viết Một Bài Báo Khoa Học

Tiêu đề chưa tốt: Nghiên cứu hút thuốc lá trong sinh viên Đại học 2014. Tiêu đề tốt hơn: Thực trạng sử dụng thuốc lá trong sinh viên Đại học và một số yếu tố ảnh hưởng-Năm 2014

* có thể sử dụng 1 trong 2 loại tóm tắt:

Tóm tắt không cấu trúc hoặc tóm tắt không tiêu đề là một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu.

Tóm tắt có cấu trúc hoặc tóm tắt có tiêu đề là có nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau đây: hoàn cảnh và mục tiêu (Background &Aims), phương pháp thực hiện (Methods), kết quả nghiên cứu (Results), và kết luận (Conclusions). Số lượng từ tóm tắt khoảng 200-300 từ, chi tiết như sau:

– Hoàn cảnh và mục đích nghiên cứu:

Câu 1: mô tả vấn đề tác giả quan tâm là gì, tình trạng tri thức hiện tại ra sao.

Câu 2: mô tả mục đích nghiên cứu một cách ngắn gọn nhưng phải rõ ràng.

– Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm của đối tượng, phương pháp đo lường, yếu tố nguy cơ thường là 4-5 câu văn.

– Kết quả: những kết quả chính của nghiên cứu, kể cả những số lượng điểm yếu. Trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra từ câu văn đầu tiên, khoảng 4-8 câu.

– Kết luận: 1 hoặc 2 câu văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu. Phần lớn độc giả chú tâm vào câu văn này trước khi đọc các phần khác, cần chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút.

* cần trả lời câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này?”, gồm các ý: nêu bối cảnh, thực trạng vấn đề nghiên cứu, định nghĩa vấn đề hoặc thuật ngữ chuyên môn; tình trạng hiện tại của nền tảng kiến thức (tóm tắt những kết quả nghiên cứu trước đã công bố); nêu các thông tin còn thiếu, mô tả các thiếu hụt hiện có về kiến thức; trình bày mục tiêu của nghiên cứu này là gì và sơ lược cách chuẩn bị nghiên cứu để trả lời mục tiêu nghiên cứu.

* đây là phần quan trọng nhất vì thể hiện tính khoa học, 70% các bài báo bị từ chối là do khiếm khuyết phương pháp. Đây là phần mà các nhà khoa học thường quan tâm đọc trước khi đọc toàn bộ bài báo. Độ dài gấp 2-3 lần đặt vấn đề, khoảng 7 đoạn. Nội dung thể hiện là mô tả nghiên cứu một cách đầy đủ, khi đọc các nhà nghiên cứu khác có thể học và áp dụng được, bao gồm các thành phần như đã làm gì? Làm như thế nào? và phân tích số liệu như thế nào? Chi tiết cụ thể như sau:

– Thiết kế nghiên cứu: mô tả ngắn gọn về mô hình nghiên cứu. Đây là câu văn đơn giản, nhưng nói lên giá trị khoa học của công trình.

– Đối tượng nghiên cứu: thông tin về đặc điểm đối tượng nghiên cứu đóng vai trò quan trọng để người đọc đánh giá khái niệm, khái quát hóa công trình nghiên cứu. Gồm đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, hôn nhân… tiêu chuẩn tuyển chọn và tiêu chuẩn loại trừ: nêu các biến số.

– Địa điểm và thời gian nghiên cứu: địa điểm có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Nêu địa điểm và thời gian thực hiện.

– Cỡ mẫu và chọn mẫu: rất quan trọng trong nghiên cứu, thường có 1 câu văn mô tả cách xác định cỡ mẫu. Không nhất thiết phải là công thức tính, mà là những giả định đằng sau cách tính. Mẫu được chọn theo cách nào: ngẫu nhiên, thuận tiện, hay toàn bộ….)

– Công cụ nghiên cứu và kỹ thuật thu thập thông tin: nêu bộ công cụ, các biến số, việc thử nghiệm. Quy trình nghiên cứu và thu thập số liệu gồm các bước nghiên cứu, thu thập số liệu, can thiệp, thử nghiệm can thiệp…

– Phân tích dữ liệu: chú ý 50% số bài báo trong tạp chí quốc tế (như JAMA) bị tối chối vì sử dụng thống kê không đúng. Cụ thể lưu ý các biến số (độc lập, phụ thuộc), test thống kê, phần mềm sử dụng.

– Đạo đức nghiên cứu: nếu đã được Tổ chức duyệt (số chứng nhận), thực tế triển khai (đồng thuận, tự nguyện, có gây hại không, bảo mật).

* nguyên tắc là trình bày những điều phát hiện qua nghiên cứu, trả lời được các câu hỏi “đã phát hiện những gì?” hoặc trả lời các mục tiêu nghiên cứu. Cần phải phân biệt đâu là kết quả chính và kết quả phụ, chỉ nên trình bày kết quả quan trọng. Trình bày hợp lý theo qui định, bảng/biểu có tiêu đề phù hợp, đối với bảng/biểu có trên 5-10 dòng, nhóm số liệu theo mục tiêu/đặc điểm, dòng/cột không hiển thị. Đối với biểu/hình: tiêu đề ở dưới, hạn chế màu, chú thích rõ ràng, dễ hiểu.

Văn phong dùng thì quá khứ, dạng chủ động, đối với các thống kê (như tên của test, trị sốP) nên viết trong ngoặc cùng với kết quả chính.

* đây là phần khó viết nhất, bởi lẽ không biết bắt đầu như thế nào? Không biết nhấn mạnh vào khía cạnh nào? Viết như thế nào cho thuyết phục? Viết theo cấu trúc nào? Nên nhớ là không có một cấu trúc cụ thể. Tuy nhiên, những báo cáo hay thường cấu trúc 6 điểm tương đương 6 đoạn chính sau:

– Tóm lược bối cảnh, giả thuyết, mục tiêu, và phát hiện chính trong đoạn văn đầu tiên;

– So sánh những kết quả này với các nghiên cứu trước;

– Giải thích kết quả bằng cách đề ra mô hình mới hay giả thuyết mới; giả định và dự đoán;

– Khái quát hóa (generalizeability) và ý nghĩa (implications) của kết quả;

– Bàn qua những ưu-nhược điểm của nghiên cứu (có ảnh hưởng đến kết quả không?)

– Một kết luận tổng hợp rút ra từ kết quả và bàn luận.

Một kết luận tổng hợp rút ra từ kết quả và bản luận. Ý nghĩa quan trọng nhất của nghiên cứu tác giả là gì? Cần có khuyến nghị gì?

Các lý do của bài báo bị từ chối đăng và cách khắc phục

– Không thuộc lĩnh vực quan tâm. Cần chọn tạp chí phù hợp chuyên ngành.

– Phạm vi hẹp, cỡ mẫu nhỏ, phương pháp kết quả không mới. Chọn tạp chí phù hợp.

– Kết quả và bàn luận không thuyết phục, do kết quả phân tích số liệu mặc dù thiết kế tốt. Cần phân tích thống kê, trình bày kết quả phù hợp, tổng quan tài liệu.

– Hình thức và cấu trúc không đúng qui định. Cần nghiên cứu kỹ và tuân thủ hướng dẫn

– Không đạt tiêu chuẩn ngôn ngữ (tiếng Anh). Viết cẩn thận từ đầu, nhờ chuyên gia ngôn ngữ hiệu đính.

– Không đạt tiêu chuẩn đạo đức. Tuân thủ nguyên tắc đạo đức, thông qua hội đồng đạo đức.

– Các lý do khác (đạo văn, tài liệu tham khảo…). Đảm bảo trung thực, sử dụng phần mềm kiểm tra. Sử dụng phần mềm Endnote để trích dẫn tài liệu tham khảo.

Một số kinh nghiệm:

Viết đi viết lại, suy ngẫm, viết câu ngắn. Nên tạo các đề mục theo trình tự logic như quy định của tạp chí. Lưu ý sử dụng thì của động từ trong các phần như phần đặt vấn đề và bàn luận thường sử dụng thì hiện tại và quá khứ; phần phương pháp, kết quả và kết luận hoàn toàn thì quá khứ; phần khuyến nghị dùng thì tương lai, hình và biểu đồ đơn giản, tránh sử dụng hình 3D, không màu và không trùng lặp với bảng.

Đối với sửa bài báo sau phản biện, cần đọc kỹ các góp ý sửa bài báo và trả lời từng góp ý. Nguyên tắc là luôn làm hài lòng người bình duyệt, cụ thể:

– Đồng ý và sửa được: nêu rõ đã sửa như thế nào, bổ sung kết quả sửa

– Đồng ý và không sửa được: nêu rõ là không sửa được vì thiếu số liệu hoặc/và thừa nhận hạn chế của nghiên cứu.

– Không đồng ý: nêu rõ là sau khi cân nhắc thì nhóm nghiên cứu muốn được giữ nguyên ý kiến và nêu ra các bằng chứng hỗ trợ.

(Nguồn: https://hucotu.com/cach-viet-va-cau-truc-chi-tiet-mot-bai-bao-khoa-hoc/)

Cách Viết Một Bài Báo Khoa Học (Phần 2)

Đây là loạt bài hướng dẫn viết một bài báo khoa học (Cơ bản nhất) được copy từ trang web của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn. BTC Giải thưởng Khoa học Euréka xin giới thiệu để các bạn tham khảo. Xin gửi lời xin phép tới giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, chúc GS mạnh khoẻ và công tác tốt.

Tuần qua tôi đã bàn về cách đặt tựa đề bài báo và các viết một abstract; tuần này, tôi sẽ chỉ cách viết phần dẫn nhập (introduction hay background).  Phần dẫn nhập là phần tương đối quan trọng, vì nó nói lên kiến thức của tác giả đến đâu trong chuyên ngành.  Người kinh nghiệm chỉ cần đọc qua phần dẫn nhập có thể đánh giá sơ qua về khả năng của tác giả đến đâu, có cập nhật hóa kiến thức như thế nào, và kĩ năng viết lách ra sao (chỉ nhìn qua cách dùng thuật ngữ là có thể đoán được).

Do đó, tác giả cần phải nhân cơ hội viết phần dẫn nhập để thuyết phục người đọc và chứng minh cho họ thấy rằng mình cũng “biết câu chuyện”.  Tôi sẽ lấy vài ví dụ để minh họa cho phần này, và để giữ khách quan, tôi sẽ không nêu tên tác giả.

Dẫn nhập (introduction)

Trong phần này, tác giả cẩn phải trả lời câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này?” (Why did you do this study?)  Phần dẫn nhập phải cung cấp những thông tin sau đây: (a) định nghĩa vấn đề; (b) những gì đã được làm để giải quyết vấn đề; (c) tóm lược những kết quả trước đã được công bố trong y văn; (d) và mục đích của nghiên cứu này là gì.

Đối với các tập san y khoa lớn và tổng quát (như New England Journal of Medicine, JAMA, Annals of Internal Medicine,v.v…) thì định nghĩa vấn đề rất quan trọng, bởi vì độc giả khác ngành có thể nắm được vấn đề và biết được tác giả đứng trên góc độ nào.  Chẳng hạn như một nghiên cứu về gene và loãng xương, thì đoạn đầu tiên có thể nên (a) định nghĩa loãng xương là gì (vì nhiều người vẫn chưa rành), (b) tầm quan trọng của loãng xương ra sao (câu này để nhấn mạnh đây là vấn đề lớn, và vì lớn nên phải công bố trên các tập san lớn!)  Chẳng hạn như, tác giả có thể viết “Osteoporosis is a disease characterized by low bone mass and deteriorated bone architecture which ultimately lead to increased susceptibility of fragility fracture.”  Câu kế tiếp sẽ nói tầm quan trọng của gãy xương như thế nào, như tăng nguy cơ tử vong, tái gãy xương, giảm chất lượng cuộc sống, v.v… Nhưng đối với các tập san chuyên ngành loãng xương và nội tiết, thì câu định nghĩa trên có khi … khôi hài.  Khôi hài là vì đại đa số độc giả các tập san đó đều biết loãng xương là gì, và họ sẽ thấy khó chịu nếu tác giả “lên lớp” họ về một định nghĩa sơ đẳng!  Thông thường, những tác giả viết câu định nghĩa trong các tập san chuyên ngành là nghiên cứu sinh, chứ chuyên gia cấp cao hơn không ai viết như thế.

Trong phần dẫn nhập, tác giả cần phải nêu cho được tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.  Để nêu tầm quan trọng, tác giả có thể trình bày những thông tin như tần số của bệnh (prevalence) trong cộng đồng, hệ quả của bệnh đến nguy cơ tử vong, tăng nguy cơ mắc các bệnh khác (biến chứng), ảnh hưởng của bệnh đến nền kinh tế nước nhà, giảm chất lượng cuộc sống.  Chẳng hạn như câu “In postmenopausal women, one in three women will sustain a fragility fracture during their remaining lifetime” là một cách nêu lên qui mô của vấn đề gãy xương; nhưng để nêu hệ quả thì có thể viết một câu khác như “Fragility fracture is associated with increased risk of pre-mature mortality” (câu này nhấn mạnh “pre-mature mortality”, tức là chết sớm!) nên sẽ gây chú ý.

Phần lớn những ý tưởng trong phần dẫn nhập xuất phát từ y văn, tức những công trình đã công bố trước đây.  Khi điểm qua y văn, nên giới hạn trong những nghiên cứu đã công bố trong vòng 5 năm trở lại đây, tránh những nghiên cứu đã trên 20 năm hay tránh những thông tin trong sách giáo khoa vì có thể những thông tin như thế không còn hợp thời nữa. Tuy trình bày thông tin quá khứ, nhưng phải là những câu chữ của chính tác giả, chứ không phải trích dẫn quá nhiều hay lặp lại câu chữ của người đi trước.  Tất cả những thông tin trong phần dẫn nhập phải ăn khớp với tài liệu tham khảo.  Tác giả nên có những tài liệu tham khảo đó, chứ không nên trích dẫn theo những những bài báo trong y văn (secondary citation).

Cách viết

Về mặt cấu trúc, phần dẫn nhập bao gồm một số đoạn văn không cần tiêu đề (heading).  Tuy nhiên, để viết tốt phần dẫn nhập, kinh nghiệm của tôi cho thấy cần phải chú ý đến một số điểm căn bản sau đây: 

(a) Không nên viết quá dài.  Viết quá dài rất dễ làm cho người đọc sao lãng vấn đề chính, và có khi làm mất thì giờ người đọc phải đọc những thông tin không cần thiết.

(c) Phần dẫn nhập phải phát biểu mục đích nghiên cứu.  Đoạn văn cuối của phần dẫn nhập là nơi để tác giả, sau khi điểm qua vấn đề và y văn, phát biểu mục đích của công trình nghiên cứu.  Cố gắng duy trì nguyên tắc “từ tổng quan đến cụ thể”, tức là trong phần phát biểu vấn đề thì câu văn mang tính chung chung, nhưng phần mục đích thì phải cụ thể.  Trong nhiều trường hợp, trước phần mục đích, tác giả nên phát biểu giả thuyết nghiên cứu.  Chẳng hạn như “We hypothesize that blah blah blah”, rồi một câu kế tiếp “This study was designed to test the hypothesis by addressing the following specific aims: blah blah blah”.

(d) Về văn phạm, phần dẫn nhập nên viết bằng thì quá khứ, nhất là khi mô tả những kết quả trong quá khứ.  Tuy nhiên, khi đề cập đến những thông tin mang tính cổ điển mà được cộng đồng chuyên ngành chấp nhận, tác giả có thể dùng thì hiện tại.

Một vài ví dụ

Trong bài báo sau đây, tác giả viết phần dẫn nhập một cách ngắn gọn, chỉ 1 đoạn văn, nhưng cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để bạn đọc biết vấn đề.

Fragility fracture is a serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and is associated with increased risk of mortality [1]. Measurement of bone mineral density predicts subsequent risk of fractures among the elderly [2-4]. However, bone mineral density in later decades of life is a dynamic function of peak bone mass achieved during growth and its subsequent age-related rate of loss [5]. It has been estimated that over a lifetime, a typical woman loses about half of her trabecular bone and one third of her cortical bone [6], although some women experience greater loss than others.

It is not clear whether the rate of bone loss is an independent risk factor for osteoporotic fractures. We hypothesized that patients with excessive bone loss are at increased risk of fracture. The present study was designed to test the hypothesis by assessing the contribution of bone loss to the risk of osteoporotic fractures in elderly women

Câu đầu (Fragility fracture is a serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and is associated with increased risk of mortality) tác giả định nghĩa vấn đề và cố gắng thuyết phục rằng gãy xương là vấn đề nghiêm trọng vì làm tăng nguy cơ tử vong.

Trong câu thứ hai (Measurement of bone mineral density predicts subsequent risk of fractures among the elderly) tác giả cho biết mật độ xương là một yếu tố tiên lượng gãy xương.

Hai câu kế tiếp (However, bone mineral density in later decades of life is a dynamic function of peak bone mass achieved during growth and its subsequent age-related rate of loss. It has been estimated that over a lifetime, a typical woman loses about half of her trabecular bone and one third of her cortical bone [4], although some women experience greater loss than others) tác giả cho biết mật độ xương thay đổi thay độ tuổi, và tùy thuộc vào hai thông số: mật độ xương tối đa trong thời “xuân thì”, và tỉ lệ mất xương sau thời kì mãn kinh.

Sau khi đặt vấn đề, tác giả phát biểu giả thuyết nghiên cứu (We hypothesized that patients with excessive bone loss are at increased risk of fracture), và mục đích nghiên cứu (The present study was designed to assess the contribution of bone loss to the risk of osteoporotic fractures in elderly women.)

Đây là một dẫn nhập có thể nói là rất logic, vì ý tưởng nối kết nhau.  Câu văn đầu cho đến câu văn cuối là một vòng tròn khép kín.  Có lẽ cái hay của tác giả là chỉ tóm gọn phần dẫn nhập trong một đoạn văn duy nhất với 114 từ!  Viết dẫn nhập ngắn gọn và súc tích như thế đòi hỏi kinh nghiệm chuyên môn tốt và cách dùng chữ một cách chiến lược.

Nhưng nếu chúng ta xem xét phần dẫn nhập sau đây:

It is well recognised that nonsocomial infection is associated with an increase in morbidity and mortality together with a significant economic cost [1]. Patients in Intensive Care units develops nonsocomial infections more frequently than other hospitalised patients [2]. This is a result of severity of illness, multiple exposure to invasive procedures and multiple therapies [3]. Patients in surgical and orthopaedic wards are also at a high risk of developing nonsocomial infections. These patients are exposed to various invasive procedures (including surgical wounds) which may be similar to those in ICU. Because of the expected differences in the nature of risk factors, patients’ illnesses in the therapeutic and infection control measures in the above wards, it was necessary to conduct a study to assess the nonsocomial infection rates.

In the development of contemporary mathematics in Vietnam complex analysis occupies a special place. In this note we give a brief survey of the development of complex analysis in Vietnam. We describe how complex analysis in Vietnam developed under very special conditions: the anti-French resistance, the struggle for the reunification of the country, the American war, the economic crisis, and the change toward a market economy.

Đứng trên quan điểm viết báo khoa học, phần dẫn nhập này chưa đạt.  Tạm bỏ qua những sai sót về tiếng Anh và văn phạm tiếng Anh (khá hiển nhiên), có thể thấy rằng các câu văn không mang tính nối tiếp và khúc chiếc.  Trong câu văn đầu, tác giả không nêu vấn đề là gì, mà đi thẳng vào vị trí đặc biệt của complex analysis ở Việt Nam.  Nhưng câu thứ hai thì không thấy tac giả nói “đặc biệt” như thế nào; thay vào đó, tác giả giới thiệu nội dung bài viết!  Đến câu thứ 3 thì chúng ta mới biết “đặc biệt” là gì (là phát triển trong bối cảnh chiến tranh).  Nói cách khác, phần dẫn nhập này chưa đạt, vì chưa nói lên được vấn đề, chưa trả lời câu hỏi tại sao phải có bài báo này.  Cách trình bày ý tưởng cũng chưa mạch lạc.  Nên tránh cách viết này.

Có người nghĩ rằng chỉ cần viết ngắn gọn, nhưng đối với “văn chương khoa học” thì tôi nghĩ quan điểm đó không đúng.  Viết phần dẫn nhập quá ngắn làm cho người đọc cảm nhận rằng tác giả thiếu suy nghĩ sâu, thiếu ý tưởng, hay thiếu thông tin (nên chẳng biết viết/nói gì thêm).  Viết dài quá thì độc giả lại nghĩ tác giả có lẽ do thiếu ý tưởng nên cố tình kéo dài câu chuyện!  Do đó, cách viết dẫn nhập tốt nhất là vừa đủ, không qúa dài và cũng không quá ngắn.  Theo kinh nghiệm của tôi, phần dẫn nhập của một bài báo y khoa chỉ nên giới hạn trong vòng 1 trang A4.  Điều quan trọng nhất là sau khi đọc xong phần dẫn nhập, người đọc biết được tầm quan trọng của nghiên cứu, và tại sao tác giả làm nghiên cứu.  Được như thế thì có thể xem như tác giả đã “đạt” được một mục tiêu của mình: đó là làm cho người đọc phải đọc phần kế tiếp (phần Phương pháp).

Cách Xây Dựng Đề Cương Và Viết Một Báo Cáo Nghiên Cứu Khoa Học Y Học (Phần 2)

1. Viết tên đề tài nghiên cứu khoa học

Sau khi đã viết được tên của vấn đề nghiên cứu (VĐNC) thì việc tiếp theo là viết tên của đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH). Đương nhiên khi đã viết tên vấn đề nghiên cứu tuân thủ đủ các tiêu chí thì giờ đây viết tên đề tài trở nên dễ dàng hơn. Tiêu chí chung để viết tên đề tài NCKH:

Rõ VĐNC;

Bao phủ được các mục tiêu nghiên cứu (MT);

Số từ: Không quá nhiều (không quá 32) và một số yêu cầu khác.

1.1. Vấn đề nghiên cứu

Như ” Phần 1. Chọn vấn đề nghiên cứu” đã trình bày, tên VĐNC cần tuân thủ các tiêu chí:

Rõ vấn đề tồn tại;

Có độ lớn của vấn đề;

Rõ thời gian vấn đề xảy ra;

Rõ địa điểm xảy ra;

Rõ đối tượng bị tác động (nếu có);

Có tính trọn vẹn;

Có phạm vi giới hạn phù hợp

Tên đề tài NCKH cũng tuân thủ các tiêu chí này. Có thể có những tên đề tài không theo đủ các tiêu chí trên mà có những tiêu chỉ “ẩn” như đã nêu trong Phần 1.

1.2. Tên đề tài phải bao phủ được các mục tiêu nghiên cứu

Theo ý kiến của nhiều nhà khoa học thì tên đề tài NCKH cần phải bao phủ hết các mục tiêu/nội dung nghiên cứu, có như vậy tên đề tài mới lô-gic với MT/nội dung và thể hiện được tính “khoa học” của cách viết cũng như tư duy của người viết. Điều này cũng thể hiện được trình độ của người viết. Như vậy, khi viết xong tên đề tài NCKH thì coi như các MT nghiên cứu (và cũng là nội dung chính) của đề tài đã được định đoạt.

Ví dụ: Tên đề tài: ” Tác động của chất MK trong điều trị bệnh Kaler tủy xương” (Lấy lại ví dụ của bài trước). Tên này đã hàm ý chỉ ra các mục tiêu/nội dung sau đây: a) Mô tả tác động lâm sàng (tác động hay triệu chứng lầm sàng tích cực và cả tiêu cực) của chất MK, và b) Mô tả tác động cận lâm sàng của chất MK lên cơ thể người (Tức các thay đổi về xét nghiệm).

Nhưng nếu tên đề tài là: ” Tác động của chất MK trong điều trị bệnh Kaler tủy xương và các yếu tố ảnh hưởng” thì ngoài các mục tiêu như trên đề cập, thêm một mục tiêu/ nội dung nữa là: Mô tả các yếu tố ảnh hưởng (cả tích cực và tiêu cực) lên các tác động này (Yếu tố ảnh hưởng đó có thể là nhóm tuổi, giới của người bệnh, thể bệnh, thời gian sử dụng chất MK, liều lượng chất MK, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, hóa chất nào đó…).

1.3. Tên đề tài NCKH không quá dài

Thông thường tên đề tài NCKH chỉ gọn trong một câu (nên không có dấu chấm trong tên đề tài). Nhiều đơn vị như Trường Đại học Y Hà Nội, Trường Đại học Y tế công cộng, Bộ Y tế… thường có quy định (không thành văn): Tên đề tài NCKH không nhiều quá 32 từ. Một số nơi lại quy khuyến cáo tên đề tài NCKH không quá 20 từ. Quy định này bắt buộc người viết đề tài phải chọn lọc từ ngữ, chọn lọc cách trình bày các ý sao cho ngắn gọn, dễ hiểu, mang tính khoa học.

Bảng 1. Tên đề tài nghiên cứu khoa học

Tên đề tài đầy đủ.

Tỉ lệ trẻ <5 tuổi tại huyện M bị viêm đường hô hấp cấp tính năm 2019 và các yếu tố ảnh hưởng.

Tác động của chất MK trong điều trị bệnh Kaler tủy xương và các yếu tố ảnh hưởng.

Tỉ lệ trẻ <5 tuổi tại huyện M bị viêm đường hô hấp cấp tính là 25% năm 2019.

Tác động của chất MK trong điều trị bệnh Kaler tủy xương.

Các mục tiêu nghiên cứu dự kiến sẽ có

1)Mô tả tỉ lệ hiện mắc, mới mắc viêm đường hô hấp cấp tính theo các yếu tố tự nhiên và xã hội ở trẻ < 5 tuổi.

2) Tìm các yếu tố ảnh hưởng tới các tỉ lệ trên (cả yếu tố tác động dương tính và âm tính).

1) Mô tả tác động lâm sàng của chất MK,

2) Mô tả tác động cận lâm sàng của chất MK lên cơ thể người (Tức các thay đổi về xét nghiệm).

3) Tìm các yếu tố ảnh hưởng (cả tích cực và tiêu cực) lên các tác động lâm sàng và cận lâm sàng.

Ngoài ra, tên đề tài phải có sức lôi cuốn người đọc ngay từ lúc ban đầu. Muốn làm được điều này, người viết hay nghiên cứu viên (NCV) phải thao tác tổng hợp nhiều yếu tố cấu thành:

– Sự am hiểu độc giả của các NCV, biết được cái “gu” hay sở trường hay nhu cầu của độc giả, nắm chắc được sở thích của độc giả, đáp ứng đúng được sở thích, nhu cầu của độc giả.

– Vấn đề nghiên cứu có tính mới (Phụ thuộc vào bước chọn vấn đề nghiên cứu ngay từ lúc ban đầu).

– Khả năng chọn lọc từ ngữ, đặt câu… của NCV, sao cho vừa lôi cuốn và vừa dễ hiểu.

1.4. Chú ý khi viết tên đề tài nghiên cứu khoa học:

– Không dùng các động từ để mở đầu cho tên đề tài nghiên cứu, như: “Nghiên cứu”, “thăm dò”… Tuy nhiên cũng có tác giả dùng từ “đánh giá” để viết tên một số đề tài nghiên cứu, tuy nhiên không nên lạm dụng và nên rất hạn chế.

– Không nên dùng từ có tính chất bất định như: “Một số vấn đề về…”, “Thử bàn về…”

– Không lạm dụng từ chỉ mục đích: “nhằm”; “để” ; “góp phần”…

– Không lạm dụng mỹ từ hay cách nói bóng bẩy; tiêu chí dùng từ là đơn giản, rõ ràng, ngắn gọn dễ hiểu, đơn nghĩa. Xem xét kĩ, những từ hay cụm từ nào “thừa”, có thể bỏ được thì nên bỏ.

– Không thể hiện tình cảm, thiên kiến, quan điểm, phải đảm bảo tính khách quan.

– Không đặt tên đề tài dưới dạng câu hỏi, câu phủ định hay khẳng định.

– Không viết tựa đề theo kiểu phát biểu (statement) vì trong khoa học không có gì bất biến. Nhiều sự kiện đúng hôm nay nhưng mai có thể không còn đúng.

– Không viết tắt trong tên đề tài nghiên cứu khoa học [1].

– Không nên sử dụng những thuật ngữ có nhiều lớp nghĩa trong tên của đề tài nghiên cứu [2].

– Tên đề tài mang tính khái quát cao cho toàn bộ nội dung của nghiên cứu (chính vì thế tên này phải bao trùm tất cả các mục tiêu nghiên cứu). Tuy nhiên không quá chi tiết. Ví dụ, đề tài được triển khai tại khoa nội và khoa y học cổ truyền của bệnh viện M thì tên đề tài chỉ cần viết “tại Bệnh viện M”, không cần viết chi ly, cụ thể: “tại khoa Nội và khoa Y học cổ truyền của Bệnh viện M”. Nhìn chung, viết tên đề tài, mục tiêu, nội dung nghiên cứu… cần tuân thủ nguyên tắc sau: Giảm tính khái quát, tăng dần tính chất chi tiết, rõ ràng và cụ thể (hình 1).

Hình 1: Mức độ chi tiết hóa trong viết báo cáo NCKH

Tên đề tài cần được chỉnh sửa nhiều lần (nhiều khi viết xong đề tài nghiên cứu rồi quay lại xem xét và chỉnh sửa lại tên đề tài)[3], có như vậy người viết mới đảm bảo có tên đề tài NCKH phù hợp, lô-gic và tốt nhất.

Tài liệu tham khảo

1. Cộng đồng sinh viên kinh tế làm nghiên cứu khoa học, Lưu ý khi đặt tên đề tài nghiên cứu, https://rces.info/sinh-vien-kinh-te-nckh/luu-y-khi-dat-ten-de-tai-nghien-cuu/, cập nhật 12-8-2019.

2. Phạm Phúc Vĩnh (2015) Chọn và đặt tên đề tài, Sổ Tay Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, http://sotaynghiencuusinhvien.blogspot.com/2015/03/chon-va-at-ten-e-tai.html, cập nhật: 14/8/2019.

3. Trần Thế Trung (2018) Cách viết một đề cương nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.

4. Vũ Cao Đàm (2000) “Các bước triển khai một đề tài nghiên cứu khoa học”, Giáo trình điện tử – Phương pháp nghiên cứu tài liệu trong nghiên cứu khoa học, Louis Pasteur Strasbourg. http://www.khoahocviet.info/meresci/vi/meresci01a0.html, cập nhật 14-8-2019.

5. Y Học Bản Địa, Các đề tài đã, đang chuyển giao khoa học công nghệ, https://yhocbandia.vn/ho-so-nang-luc-to-hop-y-hoc-ban-dia-viet-nam, cập nhật 15-8-2019.

6. RCES (2016) Đặt tên cho đề tài nghiên cứu khoa học- Chuyện chưa bao giờ kể, International Banking Club – IBC BUH, Facebook, https://www.facebook.com/IBC.BUH/posts/1300344866694319/ cập nhật ngày 15-8-2019.

Doctor SAMAN Vũ Khắc Lương Phó giáo sư, Tiến sĩ Y học, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Y Hà Nội

[{“src”:”/resources/upload/images/10.2019/2019-10-23_082448.jpg”,”thumb”:”/resources/upload/images/10.2019/2019-10-23_082448.jpg”,”subHtml”:””}]

Bạn đang đọc nội dung bài viết Cách Viết Báo Cáo Khoa Học Cho Các Tập San Khoa Học Quốc Tế trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!