Đề Xuất 6/2023 # Bài Soạn Lớp 10: Nhàn # Top 14 Like | Techcombanktower.com

Đề Xuất 6/2023 # Bài Soạn Lớp 10: Nhàn # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bài Soạn Lớp 10: Nhàn mới nhất trên website Techcombanktower.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”. Trải qua bao nhiêu năm, tài năng và triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn được người đời nhớ đến, tư tưởng của ông đã được đúc kết vào tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi, mà tiêu biểu trong đó là bài thơ “Nhàn” - bài thơ được đánh giá là tinh hoa của triết lý nhân sinh nhàn dật. 

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, để phân tích nó, ta có thể đi qua lần lượt từng liên thơ: Khai, thừa, chuyển, hợp để làm rõ được tinh thần và sự kết nối của bài thơ. Khai là Khai đoan, còn gọi là Khởi bút, Khởi thi mà mở đầu tư tưởng – nghệ thuật bài thơ, giống như đại bàng vỗ cánh lấy đà bay lên. Ở đây, bài thơ Nhàn đã được mở đầu bằng một giọng hồn nhiên đầy ấn tượng:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”

Tác giả đã sử dụng điệp từ “một” để nhấn mạnh sự ít ỏi, đồng thời tạo nhịp điệu thư thái ung dung như đang dạo chơi. Hình ảnh của chủ thể trữ tình hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Những vật dụng làm nông ấy góp phần khắc họa nên cuộc sống yên bình, giản dị và chất phác. Tính chất của lối sống này đã được thâu tóm trong từ “thơ thẩn”, chấp nhận “dầu ai vui thú nào”, mặc cho người đời có những lựa chọn khác. Nhà thơ đã gợi lên cho chúng ta những nét đầu tiên của cuộc sống nhàn dật: chấp nhận lối sống an bình dù người đời có cười chê, dù chẳng phải ai cũng có thể từ bỏ danh vọng để đến với cuộc sống “thơ thẩn”, làm những điều mình thích.

Đến liên thơ thứ hai, tư tưởng của nhà thơ được thể hiện rõ hơn thông qua sự đối lập giữa ta và người trên vấn đề xác định mục tiêu của cuộc đời:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.”

Ta chính là chủ thể trữ tình – nhà thơ. Còn người chắc chẳng phải là cả thiên hạ, mà chỉ là những kẻ tất bật đâm vào chốn lao xao, tìm ý nghĩa cuộc đời ở những nơi danh lợi quyền quý đầy láo nháo. Cách sử dụng phép đối: dại, khôn; nơi vắng vẻ, chốn lao xao cho thấy được sự khác nhau giữa lối sống của nhà thơ và nhiều người khác. Cớ sao gọi mình là dại, nhưng nhà thơ vẫn cứ khăng khăng giữ lại cái dại ấy? Hay chăng ý nhà thơ là dù cho “tìm nơi vắng vẻ” là dại đi nữa, thì ông vẫn cứ dại, bởi ông không thể hòa vào “chốn lao xao” được, nơi ông không thể tìm thấy được bình yên trong tâm hồn mình. “Nơi vắng vẻ” không nhất thiết phải là một nơi thiên nhiên an tĩnh, đó có thể chỉ là một không gian của riêng ta, nơi ta tìm được miền vắng vẻ thuộc về mình, tìm được cái nhàn ẩn cho riêng bản thân.

Trong liên thơ Chuyển, cái thú vị của “nơi vắng vẻ” mà nhà thơ tìm đến được miêu tả rõ hơn:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông được nhắc tới trong hai câu thơ gợi lên ý niệm về thời gian. Ở đây, nhà thơ không hẳn nói đến cảnh sống nghèo khó hay giản dị của mình. Mà kẻ nhàn dật muốn nhấn mạnh rằng người đang hạnh phúc khi được sống với con người tự nhiên của mình. Khi sống hài hòa cùng nhịp điệu của thiên nhiên, tự khắc người ta cảm thấy tự do thoải mái. Tưởng như mọi nhu cầu đều được đáp ứng dễ dàng. Mùa nào thức ấy, thức ăn có sẵn quanh ta, thanh đạm nhưng đấy là cái nhàn thanh cao, không phải có được do giành giật và tước đoạt từ tay thiên hạ. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:

“Xuân du phương thảo địa,

Hạ thưởng lục hà trì;

Thu ẩm hoàng hoa tửu,

Đông ngâm bạch tuyết thi.”

(Cổ thi – TQ)

Tư tưởng này gần gũi với triết lý “vô vi” của Đạo giáo, cũng là tư tưởng gắn liền và xuyên suốt trong quá trình sáng tác của Nguyễn Bình Khiêm, đặc biệt là trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi.

Đến liên thơ Hợp dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Tác giả đã sử dụng điển Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình đến Đại Hòe An quốc, được quốc vương đất ấy cho làm Thái thú quận Nam Kha. Sau, Thuần Vu Phần cầm quân đánh giặc, chẳng may bị thua. Còn công chúa ở nhà bị đau bệnh mà chết. Vua nước Đại Hòe An nghi ngờ, rồi cách chức đuổi đi. Thuần Vu Phần buồn chán và uất ức, liền giật mình thức dậy, thấy mình đang nằm dưới cội cây hòe, nơi cành cây phía Nam, nhìn lên thấy một con kiến chúa đang nằm trong một tổ kiến lớn. Thuần Vu Phần nằm suy nghĩ về giấc mộng vừa qua của mình, chợt tỉnh ngộ, hiểu rằng nước Đại Hòa An là cây hòe lớn, cành cây phía Nam là đất Nam Kha, vua nước Đại Hòe An là con kiến chúa, dân chúng là toàn ổ kiến. Thuần Vu Phần cảm câu chuyện trong mộng, tỉnh ngộ biết cảnh đời là ngắn ngủi, không định liệu được việc gì cả, bèn dốc lòng tìm đạo tu hành. Cuộc đời là phù du mộng ảo; công danh phú quí như giấc chiêm bao. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu thơ là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự. Cũng từ đây, ta hình dung ra hình ảnh một ông già thư thái ngồi bên chén rượu, ngửa mặt nhìn phù vân trôi nổi rồi ngủ một giấc thanh thản. Chẳng phải, sống như thế thật là bình yên sao?

Nhàn không phải là một lí tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười nhát. Nhàn là không để lòng vấy bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm. Bài thơ Nhàn xuất sắc không chỉ ở tư tưởng được truyền tải trong đó, mà còn ở nghệ thuật và chất thơ được gợi lên trong bài thơ. Bài thơ Nhàn đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn khác về cuộc đời và cách chúng ta có thể sống để tìm được cõi bình yên trong tâm hồn mình

Soạn Bài Ngữ Văn Lớp 10: Nhàn

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀITrước hết, cần đọc bài thơ vài lần để có cảm nhận chung về tác phẩm. Đọc với giọng nhẹ nhàng, thong thả, thoải mái. Chú ý ngắt nhịp đúng (nhịp 4/3), riêng câu đầu ngắt nhịp 2/2/3 (Một mai/một cuốc/một cần câu), câu 3,4 ngắt nhịp 2/5.

Ta dại ta / tìm nơi vắng vẻNgười khôn / người đến chốn lao xao. 1. Hai câu đầuMột mai / một cuốc / một cần câu,2. Hai câu 3, 4 Thơ thẩn dầu ai /vui thú nào.

Sau đó đọc kĩ Tiểu dẫn và Chú thích để nắm được tác giả, xuất xứ tác phẩm và hiểu đúng, hiểu sâu hơn bài thơ (đặc biệt chú thích (3) về điển Thuần Vu Phần ở hai câu thơ cuối).

Câu 1 ngắt nhịp 2/2/3 cùng với cách dùng dùng số từ + danh từ liên tiếp (một …, một …, một …) như kể ra rành rọt những dụng cụ cho một cuộc sống đã sẵn sàng: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá. Câu thơ đưa ta về với cuộc sống nguyên sơ, thuần hậu, tự cung tự cấp của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (nước đào giếng, cơm cày ruộng). Cụ Trạng Trình, một bậc đại khoa mà lại về với cuộc sống như vậy thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang, mà cứ ung dung, thanh thản như không – nhịp điệu nhẹ nhàng, thong thả của câu 2 đã nói rõ điều đó:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hoàn cảnh cuộc sống là như vậy nhưng nhà thơ đã sẵn sàng chấp nhận và như còn vui, thích thú với cuộc sống đó (Dù ai có cách vui thú nào cũng mặc, ta cứ thơ thẩn giữa cuộc đời này).

Hai câu thơ vừa mang vẻ đẹp nhân cách, lại mang vẻ đẹp trí tuệ của một bậc hiền sĩ, thức giả. Nơi vắng vẻ đối lập với chốn lao xao, ta đối lập với người, dại đối lập với khôn. “Ta tìm nơi vắng vẻ” là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. “Người đến chốn lao xao” là đến chốn cửa quyền, đến vòng danh lợi.

Ta thấy rõ nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Ông còn là một bậc thức giả với trí tuệ tỉnh táo, sáng suốt – trong sự lựa chọn nơi vắng vẻ để sống, và cả trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, thâm trầm mà sâu sắc: nói ta dại nhưng thực chất là khôn, nói người khôn mà chính là dại. Câu thơ mang ý vị triết lý sâu xa về cách sống của con người.

Hai câu thơ có âm điệu nhịp nhàng, hình ảnh đẹp, lại đối nhau rất chỉnh và cân xứng, tạo nên bộ tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của nhà hiền sĩ. Ở đây, cuộc sống đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh. Thức ăn dân dã nhưng mùa nào thức ấy (Thu ăn măng trúc, đông ăn giá), cuộc sống giữa thiên nhiên mà thanh thản, thơ mộng (Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao). Một cuộc sống thanh đạm nhường ấy dễ mấy ai đã có được như nhà thơ!

Hai câu thơ cuối càng khẳng định mạnh mẽ nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông xem phú quý chỉ là giấc chiêm bao như giấc mộng của Thuần Vu Phần xưa. Ở đây, với cái nhìn thông tuệ của bậc thức giả, ông tìm đến say chỉ là để tỉnh. Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra danh lợi chỉ là giấc chiêm bao, nâng cao nhân cách để nhà thơ từ bỏ chốn lao xao tìm về nơi vắng vẻ, đạm bạc mà thanh cao.

5. Lựa chọn cách hiểu đúng về quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh KhiêmSGK đưa ra bốn quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai quan niệm trên không đúng với nhà thơ. Với ông, quan niệm sống nhàn là:

– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao của nhà hiền sĩ.– Hòa hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để di dưỡng tinh thần.

Đó là quan niệm sống nhàn tích cực của Nguyễn Bĩnh Khiêm. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến có những biểu hiện suy vi về đạo đức lúc bấy giờ, một quan niệm sống nhàn như vậy thật đáng trân trọng. Đó là chưa kể ông nhàn thân mà không nhàn tâm, nhàn mà vẫn canh cánh một niềm ưu ái với nước, với dân như trong phần Tiểu dẫn đã nói rõ.

6. Nêu cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ NhànCác em có thể

Gợi ý:– Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao.– Nhân cách cao cả, vượt lên trên danh lợi.– Trí tuệ tỉnh táo, sáng suốt, sâu sắc.

Đó là cuộc sống, nhân cách, trí tuệ cao đẹp của một bậc hiền sĩ, thức giả, của một nhà thơ lớn mang cốt cách một nhà hiền triết phương Đông.

Soạn Bài Lớp 10: Nhàn Soạn Bài Môn Ngữ Văn

Soạn bài: Nhàn

Soạn bài lớp 10: Nhàn do Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về nhân vật trữ tình này xuất hiện trong lời thơ với những chi tiết về cách sống, cách sinh hoạt và quan niệm sống: tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá; chọn nơi vắng vẻ, không thích nơi ồn ã; ăn uống, tắm táp thoải mái, tự nhiên giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 10 chuẩn bị cho bài giảng của học kỳ mới sắp tới đây của mình.

NHÀNNGUYỄN BỈNH KHIÊM

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ trạng nguyên. Làm quan được tám năm, ông dâng sớ xin chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, mở trường dạy học. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình Quốc công sấm kí,…

2. Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với tự nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích ở tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập là một trường hợp tiêu biểu.

3. Với lời thơ tự nhiên, giản dị mà giàu ý vị, bài thơ Nhàn thể hiện được một cách sâu sắc cái thú và ý nghĩa triết lí trong lối sống nhàn dật mà tác giả đã lựa chọn. Đó là quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật. Nhân vật trữ tình này xuất hiện trong lời thơ với những chi tiết về cách sống, cách sinh hoạt và quan niệm sống: tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá; chọn nơi vắng vẻ, không thích nơi ồn ã; ăn uống, tắm táp thoải mái, tự nhiên; coi phú quý tựa giấc mộng.

2. Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm (một…, một…, một…) trước các danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc sống điền dã, và còn như là chút ngông ngạo trước thói đời.

3. Có thể thấy vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của bài thơ ở việc lựa chọn từ ngữ, giọng điệu. Các từ ngữ nôm na, dân dã được sử dụng kết hợp với cách cấu tạo câu thơ như lời khẩu ngữ tự nhiên đã tạo ra nét nghệ thuật độc đáo cho bài thơ. Đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: “Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

4. Sự đối lập giữa “Ta dại” và “Người khôn” trong câu 3 – 4 mang nhiều hàm ý: vừa để khẳng định sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả, vừa thể hiện sắc thái trào lộng, thái độ mỉa mai đối với cách sống ham hố danh vọng, phú quý. Theo đó, cái dại của “ta” là cái “ngu dại” của bậc đại trí, với trí tuệ lớn, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của cuộc đời, sống thanh thản, nhàn dật, thuận lẽ tự nhiên. Cho nên, nơi “ta” chọn là “nơi vắng vẻ”, nghĩa là nơi có thể tĩnh tại, sống an nhàn, không có tranh giành “tư lợi” theo sở thích của “ta”. Còn “người khôn” mà chọn “Đến chốn lao xao”, nghĩa là nơi ồn ã, ở đó con người chen chúc, xô đẩy nhau để giành giật lợi danh, thì lại hoá ra “dại” vậy “khôn” – “dại”, “nơi vắng vẻ” – “chốn lao xao” là những quan niệm sống, cách lựa chọn rất khác nhau.

5. Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú. Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.

6. Triết lí nhân sinh

Hai câu thơ cuối bài thể hiện tập trung, sâu sắc quan niệm triết lí nhân sinh của tác giả. Hai câu này lấy tích trong truyện đời Đường. Chuyện kể về Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, tính tình phóng khoáng, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm vui. Một hôm, Vu Phần say rượu ngủ bên gốc cây hoè, mơ thấy mình được làm phò mã cho vua nước Hoè, được hưởng giàu sang phú quý, tỉnh dậy mới biết đó chỉ là giấc mơ. Tác giả mượn điển tích này để bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.

Lánh đời ẩn dật, cách ứng xử đó của tác giả có vẻ tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh nào đó, khi muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình, đó lại là cách ứng xử tích cực.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câuThơ thẩn dầu ai vui thú nào. Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻNgười khôn, người đến chốn lao xao. Rượu đến cội cây, ta sẽ uốngNhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “nước giếng đào, cơm cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo trước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một… một… một…

Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để người đọc cảm nhận thực sự được cái vui của “cuộc sống nhàn”:

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “sang trọng” biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng. Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế nhưng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm “lánh đời” của nhà thơ:

Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngược. Vì thế nó tạo cho người đọc một liên tưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan – trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.

Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một dưới cái nhãn quan tỏ tường và thông tuệ của nhà thơ.

Soạn Bài Nhàn Lớp 10 Đầy Đủ Hay Nhất

Hướng dẫn Soạn bài Nhàn lớp 10 đầy đủ hay nhất do wikihoc biên soạn để các bạn tham khảo và soạn bài ở nhà một cách cẩn thận nhất

Các bài soạn trước đó:

SOẠN BÀI NHÀN NGỮ VĂN 10 TẬP 1

I. Tìm hiểu bải thơ Nhàn Ngữ văn 10 tập 1

1. Tác giả

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là một nhà thơ lớn của nước ta, ông làm quan trong triểu đại Mạc. Ông vì bất mãn với thời cuộc mà từ quan ở ẩn. Về quê, ông chủ yếu dạy học, ông có nhiều học trò nổi tiếng.

2. Tác phẩm

Bài thơ Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ do người sau đặt.

II. Hướng dẫn tìm hiểu bải thơ Nhàn Ngữ văn 10 tập 1

1. Câu 1 trang 129 Ngữ văn 10 tập 1

Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu trong hai câu thơ đầu có những điểm đáng chú ý như:

Tác giả sử dụng những số từ như “một… một… một…” đằng trước những danh từ như “mai, cuốc, cần” câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của tác giả trước cuộc sống điền viên, trước công việc của nhà nông

Nhịp thơ 2/2/3 tạo ra sự thảnh thơi, nhàn nhã, không có gì vướng bận của tác giả

Chữ “ai” ở trong câu thơ thứ hai để nói với người đời : dù cho người ta có “vui thú nào” thì quan điểm của vẫn vui vẻ với cuộc sống thôn dã không có gì thay đổi được

Hai câu thơ ấy, ta có thể cảm nhận được tâm trạng và cuộc sống của tác giả nơi thôn quê hoang dã vô cùng vui vẻ, bằng lòng. Tác giả cảm thấy cuộc sống vô cùng thoải mái, không hề có một chút vướng bận, đồng thời ta cũng cảm thấy một chút ngông của tác giả qua hai câu thơ.

2. Câu 2 trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1

Ta có thể hiểu “nơi vắng vẻ” trong bài thơ nhằm muốn nói đến những nơi không có sự bon chen của đồng tiền, không có sự đấu đa tranh đua, ta không cần cầu cạnh người, người cũng không phải cầu cạnh ta, nơi mà tác giả cảm thấy hòa mình cùng với thiên nhiên, vui thú với cảnh điền viên, tĩnh tại nơi tâm hồn.

“Chốn lao xao” có thể hiểu là chốn quan trường nhiều ganh đau, thủ đoạn, bon chen.

Quan điểm của tác giả giữa “dại” và “khôn”: Nhà thơ tự cho mình là một người “dại” khi từ bỏ những vật chất và phú quý vinh hoa nơi quan trường để về sống tĩnh tại nơi thôn quê, chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nơi mà tác giả cảm thấy tĩnh tại, vui vẻ, không còn vướng bận những bon chen và ganh đua nhường những người “khôn” tới “những trốn lao xao”. Tác giả tuy tự nhận mình “dại” song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: Tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống cảu tác giả giữa “khôn” và “dại”, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả về lẽ sống của mình.

3. Câu 3 trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1

Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5 và 6 có những điểm đáng chú ý là:

Tác giả đề cập tới những thức ăn dân giã: măng trúc, giá đỗ

Khung cảnh sinh hoạt mang đậm chất thôn quê: Tắm hồ sen, tắm ao

Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của tác giả ở nơi thôn quê vô cùng tự tại, tự do, tác giả như hòa mình vào cuộc sống thôn quê tuy đạm bạc mà thanh cao. Đồ ăn toàn đồ của quê nhà, tự mình làm ra, mùa nào thức đó.

4. Câu 4 trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1

Hai câu thơ cuối cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trí tuệ của tác giả khi suy ngẫm về cuộc đời công danh phú quý. Ta thấy hình ảnh một người nông dân uống rượu say bên gốc cây suy nghĩ về những cái lợi, công danh sự nghiệp, những quy luật biến đổi của cuộc đời. Để rồi có cái nhìn đầy xem thường với phú quý, vinh hoa, đối với tác giả những vinh hoa đó chỉ là phù du, một giấc chiêm bao không có thực. Từ đó khẳng định lại nhân cách cao đẹp, sự lựa chọn của tác giả giữa phương châm sống và cách ứng xử của riêng mình.

5. Câu 5 trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1

Quan điểm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thông qua bài thơ là:

Sống hòa hợp với thiên nhiên, không quan tâm tới những vinh hoa phú quý. Nhàn là cách sống tao nhã, không tham lam vinh hoa phú quý, công danh sự nghiệp nhưng đồng thời không có nghĩa là không quan tâm gì tới người khác, không quan tâm tới xã hội, chỉ sống cho cuộc sống của mình mà là rời bỏ khỏi vòng danh lợi, tìm về với thiên nhiên, tìm lại thanh thản của tâm hồn.

III. Luyện tập bài thơ Nhàn Ngữ văn 10 tập 1

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn là:

Đối với nhà thơ “nhàn” là một cách sống tao nhã, thuận theo tự nhiên, rời bỏ công danh phú quý. Bài thơ mở đầu một cách thật giản dị

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Hai câu thơ ấy, ta có thể cảm nhận được tâm trạng và cuộc sống của tác giả nơi thôn quê hoang dã vô cùng vui vẻ, bằng lòng. Tác giả cảm thấy cuộc sống vô cùng thoải mái, không hề có một chút vướng bận, đồng thời ta cũng cảm thấy một chút ngông của tác giả qua hai câu thơ. Tác giả sử dụng những số từ như “một… một… một…” đằng trước những danh từ như “mai, cuốc, cần” câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của tác giả trước cuộc sống điền viên, trước công việc của nhà nông.

Hai câu thơ sau được nối tiếp với những món ăn dân dã theo mùa, những hoạt động thể hiện lối sống nhàn, hòa mình với cuộc sống bình dị:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Măng trúc, giá là những thức ăn bình dị của đồng quê, không chút cầu kỳ, hoa mĩ. Hai câu thơ cũng cho ta thấy sự hòa hợp của tác giả với thiên nhiên, cây cỏ. Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật cũng thể hiện trong lối sống thanh nhã, dường như tác giả hòa mình cùng thiên nhiên “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao’. Qua hai câu thơ, ta không thể tìm thấy ở tác giả một vị quan lớn từ chức về quê sống cuộc đời ẩn dật mà chỉ thấy ở đây một lão nông đang vui thú với cuộc sống điền viên nơi quê nhà. Tuy cuộc sống có phần thanh đạm nhưng thanh cao, giản dị nhưng tự do, tự tại. Chính vì thế mà quan điểm về “dại” và “khôn” của tác giả cũng thật sự khác người.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Quan điểm của tác giả giữa “dại” và “khôn”: Nhà thơ tự cho mình là một người “dại” khi từ bỏ những vật chất và phú quý vinh hoa nơi quan trường để về sống tĩnh tại nơi thôn quê, chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nơi mà tác giả cảm thấy tĩnh tại, vui vẻ, không còn vướng bận những bon chen và ganh đua nhường những người “khôn” tới “những trốn lao xao”. Tác giả tuy tự nhận mình “dại” song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

Hai câu thơ cuối cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trí tuệ của tác giả khi suy ngẫm về cuộc đời công danh phú quý.

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Ta thấy hình ảnh một người nông dân uống rượu say bên gốc cây suy nghĩ về những cái lợi, công danh sự nghiệp, những quy luật biến đổi của cuộc đời. Để rồi có cái nhìn đầy xem thường với phú quý, vinh hoa, đối với tác giả những vinh hoa đó chỉ là phù du, một giấc chiêm bao không có thực. Từ đó khẳng định lại nhân cách cao đẹp, sự lựa chọn của tác giả giữa phương châm sống và cách ứng xử của riêng mình.

Các bài soạn tiếp theo:

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài Soạn Lớp 10: Nhàn trên website Techcombanktower.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!